Vào tới Quảng Bình, tôi được biên chế về Đại đội 4 của trung đoàn và ngay trong đêm 7-4-1972 trèo lên thùng xe Gaz để về đơn vị đang trú quân dưới một lũng núi phía tây huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Sau gần một tháng làm lính thông tin rải và bảo vệ đường dây bọc, bảo đảm mạch thông tin thông suốt ra mặt trận, tôi được ban chỉ huy đại đội cử đi dọc tuyến đường dây của đơn vị để tìm hiểu và viết tin cho tờ tin của trung đoàn. Mặc dù chuyến đi khá dài, băng từ phía bắc đến phía nam Đường 9 khá nguy hiểm, mà lại đi một mình, nhưng tôi vẫn vô cùng hào hứng vì biết sẽ được chứng kiến bao cảnh mới lạ ở một miền đất mới được giải phóng.

Ngày 1-5-1972, sau những trận đánh bão táp, quân ta giải phóng Quảng Trị, một tỉnh từng bao năm là vùng đất đỏ lửa với những trận đánh đã đi vào lịch sử, vào trong thơ, ca, nhạc, họa… như biểu tượng của một vùng đất anh hùng.

Và thế là, một mình một ba lô, một khẩu súng ngắn, sáng 31-5-1972, tôi đặt chân lên Đường 9 lừng danh.

Vừa từ trên dốc 300 Đá tuột xuống quãng ngã ba Tân Lâm, tôi đã gặp ngay khẩu pháo “vua chiến trường” do quân địch bỏ chạy vứt lại. Đây là thứ vũ khí tối tân của địch, đặc trưng của chiến trường Quảng Trị 1972, hai càng doãng rộng, cái nòng nhỏ mà dài ngoẵng như chiếc cần câu khổng lồ vươn mãi về phía bắc. Tôi vẫn nhớ như in cái cảm giác khi bước đi trên con đường nhựa đầu tiên của miền Nam, rộng và phẳng, với một mình một súng ngắn và giữa ban ngày ban mặt để đối diện với một chú OV10 cứ vo ve trên đầu, tôi không khỏi cảm thấy... oai oai! Tuy nhiên, cũng không hiên ngang được lâu, vì chiếc OV10 này lúc lúc lại ngoặt cánh, đảo vòng tròn, tiếng động cơ bỗng chói gắt lạ thường, dấu hiệu sắp ném pháo khói - khiến tôi phải ba chân bốn cẳng chui vội vào lùm lau ven đường. Và trong một lần vội vàng như thế, tôi đã nhào đúng vào một lùm cây xấu hổ, bị gai cào cho rớm cả máu chân. Đó chính là cây xấu hổ đã đi vào bài thơ cùng tên của tôi.

leftcenterrightdel

Nhà thơ Anh Ngọc (giữa) ở nơi huấn luyện chiến sĩ mới năm 1971, trước khi vào chiến đấu ở Quảng Trị. Ảnh tư liệu.

 

Với tâm trạng lo sợ xen lẫn tự hào, tôi vừa mải mê ngắm nhìn lũ xe tăng, xe bọc thép M113, xe vận tải quân sự, các loại quân trang, quân dụng của địch nằm ngổn ngang trên các trận địa với cái nhìn kẻ cả của người chiến thắng, vừa mắt trước mắt sau dõi hút theo “thằng” OV10 và lắng nghe tiếng rít của pháo.

Tôi thật không ngờ “bản doanh” của tổ đường dây đầu tiên mà tôi ghé lại trên đường “viễn du” nằm ngay chính giữa Đường 9 - nói chính xác hơn là chính giữa lòng Đường 9, nghĩa là nó nằm trong ruột một cái cống ngầm thoát nước xuyên qua dưới lòng đường, để nước từ triền núi thoát xuống. Hai bên miệng cống mọc đầy lau lách, đến nỗi phải đến sát mép cống tôi mới nhận ra cái anh chàng đang chờ đón tôi. Anh này mặc quần đùi, cởi trần, đen và quả thật đã làm tôi hết cả hồn vì cứ tưởng thám báo. Tôi không giấu nổi vẻ ngần ngại khi “bọ” chỉ tay mời vào tá túc ở trong lòng cái cống tối tăm ẩm ướt chắc chắn mới mượn tạm của họ hàng nhà chuột. Nhưng đã chẳng còn thời cơ cho tôi lựa chọn. Tôi nhắm mắt bước liều vào giữa cái rãnh nước hôi hám, thân cúi gập xuống để khỏi chạm phải các loại bùn đất, rong rêu bám đầy miệng cống. Nhưng chỉ một lúc sau, tôi đã thấy ngay các bạn tôi có cặp mắt xanh đáng khâm phục. Quả thật, để trụ lại giữa cái nơi trần trụi và đầy bom đạn, tưởng không còn chỗ nào lý tưởng hơn là rúc vào cái cống này.

Nhá nhem chiều, sau bữa cơm đãi khách thịnh soạn gồm một danh sách toàn các loại thực vật hái quanh miệng cống và một ít thịt hộp, Dũng, chàng tổ trưởng người Kinh Bắc hào hoa và rỗ hoa liền mời tôi lên dạo Đường 9. Đến thời khắc này thì quả thật con đường nên thơ. Bom pháo đã ngừng, lũ OV10 cũng đã dừng bay, chúng tôi thơi thới khoác vai nhau đi giữa Đường 9 bấy giờ đã sương giăng lãng đãng. Dưới ánh chiều của một ngày sắp tắt, con đường vươn dài như mời gọi những bàn chân gấp gáp tìm về một mái ấm. Đêm đã xóa đi tất cả vẻ hoang sơ và tàn tạ vốn là sản phẩm của con người, chỉ còn giữ lại một thiên nhiên tươi tắn như thuở hồng hoang. Đêm như thể cặp mi mắt khổng lồ khép lại cái hiện tại của cuộc chiến, để nối chúng tôi hôm nay với những thuở nảo thuở nào, khi trên mảnh đất này còn rộn rã những bước chân của lũ mục đồng lùa đàn trâu về sau một ngày lang thang. Tôi cố hình dung cuộc sống ở hai ven con đường những ngày xưa, khi chưa có chiến tranh. Cái cảm giác nhớ cuộc sống và nhớ con người luôn theo tôi suốt năm dài ở Quảng Trị 1972 và mỗi lần vào vùng mới giải phóng. Đấy là thứ cảm giác giống như cảm giác nhớ nhà trong thơ Đường, nó khiến lòng tôi khi ấm áp, khi giá lạnh, nó ủ ê sương khói như một màu mây biên tái.

Rời cống Đường 9, tôi phải trèo núi cả ngày mới tìm đường ra được cánh đồng dẫn đến làng Cùa, làng giải phóng miền Nam đầu tiên tôi gặp trong đời. Bước xuống chân núi cuối cùng và nhìn thấy khoảnh ruộng đầu tiên sau bao ngày xa cách đồng bằng là một giây phút cảm động đến bồi hồi. Có lẽ không anh chiến sĩ Trường Sơn nào lại không cháy lòng nhớ đến một đồng bằng. Một vạt lúa lèo tèo lút trong cỏ dại, mấy sợi dây khoai lang như ở quê tôi, ai đã gieo trồng ở nơi đây, giờ những người ấy đang ở đâu? Bom đạn thế, dẫu muốn hay không cũng khó lòng ở lại được với ruộng vườn. Sao mảnh đất này giống với miền quê tôi, Nghệ An, đến thế. Nghèo, hiu quạnh. Bất chợt, tôi sững người - ngay giữa cánh đồng ngút ngàn cỏ dại, đứng trầm mặc và cô đơn một cây hoa sữa. Điều này thì cả quê tôi và Quảng Trị đều xa lạ. Bởi vì đó chính là Hà Nội. Tôi thật sự không tin ở mắt mình. Hà Nội - đó là hoa sữa. Hoa sữa và chiến tranh, đó là một nghịch lý, nghịch lý tôi đã gặp và chỉ gặp ở mỗi Quảng Trị mà thôi. Đến Sài Gòn hình như cũng không có.

Chính cái làng nhỏ đầu tiên của đồng bào miền Nam mà tôi gặp này đã để lại trong tôi bao nỗi nhớ. Nhớ cơn mưa chiều quất như gõ búa liên hồi trên những mái tôn xơ xác, khắp nơi trắng xóa như sa mạc, những con mối cánh vỡ tổ bay lên, những cảnh trí rồi sẽ đi vào bài thơ “Mưa trên mái tôn” của tôi viết năm ấy. Buồn. Những căn nhà ọp ẹp tanh bành trong cơn hoảng loạn, giày dép, áo quần, chăn màn..., những thứ mà từ đây cho đến mùa xuân năm 1975 tôi sẽ còn được thấy không chỉ một lần, chỉ có điều đâu cũng như đâu, cũng một cái mùi ấy - mốc meo, ẩm ướt, đâu đây gào thét tiếng kêu khóc của trẻ thơ, bom đạn vô tình bắn từ hướng nào mà chả chết... Những con mối cánh từ trong đất ướt táo tác bay lên và những hạt mưa từ trên trời ném xuống... Đó có lẽ cũng là lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy cái radio cassette Nhật và cái đồng hồ Seiko là những thứ chúng tôi tuyệt nhiên không dám mơ tới. Ấy thế mà anh bạn tôi, một kỹ sư thông tin đã có thể mày mò chữa hộ bác chủ nhà - người dân hiếm hoi còn lại của làng - cái cassette, khiến bác ta tròn xoe mắt. “Các chú đàng mình học cao thật!” - bác trầm trồ.

Gia đình bác chủ nhà là một trong số hiếm hoi người dân địa phương còn trụ lại ở đây, là những người dân miền Nam đầu tiên mà tôi được trực tiếp gặp ngay tại căn nhà của họ. Bởi vì, ở cả thị trấn Cam Lộ và những nơi khác trong vùng giải phóng Quảng Trị mà tôi đã đi qua đều rất ít gặp được những cư dân của địa phương. Nhưng những gì còn lại trong các căn nhà vô chủ đã nói không ít điều về họ.

Chùm thơ viết ở Quảng Trị của tôi năm ấy, dù còn chưa thật ưng ý, nhưng đã được tặng giải nhì trong cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ năm 1972-1973.

Dẫu sao thì cũng là một niềm vui.

Tôi còn khoác ba lô đi theo các ngả đường của đất nước và chiến tranh. Nhưng những làng Cùa, thị trấn Cam Lộ, làng Cốt Xá hiu quạnh bên con suối La La chính là những hình ảnh thân thương, bé bỏng đầu tiên của miền Nam, nửa nước mà tôi chỉ biết qua sách vở thì nay đã được nhìn tận mắt. Tôi đã tiến từ làng Cùa đến Sài Gòn năm 1975, và trong đêm đầu tiên mắc võng trong vườn tổng nha cảnh sát đô thành, trong giấc mơ ngắn ngủi, tôi đã gặp lại vòm cây hoa sữa ở làng Cùa năm ấy. Cây hoa sữa của cái tháng 5-1972 trên mảnh đất Quảng Trị ấy đã như một biểu tượng không thể quên về thước đất đầu tiên của miền Nam mà sau bao năm chia cắt, lần đầu tiên tôi đã may mắn được gặp lại...

ANH NGỌC