Rồi ông dẫn tôi sang nhà cụ Tú Kiên ở xã Sơn Tân bên cạnh. Trong khuôn viên nhà vườn khá rộng rãi với nhiều cây cối bao quanh, có một căn nhà lợp ngói, gian đầu hồi dành để thờ cụ Tú Kiên, cụ bà cùng các con trai, con dâu hoạt động từ thời Xô Viết Nghệ Tĩnh và tiền khởi nghĩa...
Giáo sư Đinh Phạm Thái kể:
“Hồi khoảng 4, 5 tuổi, tôi có lần được cha cho sang thăm dượng Tú Kiên. Còn bé, song tôi vẫn nhớ dượng mới ở tù ra, học được nghề làm khảm đồi mồi ở Sài Gòn, lần ấy về hẳn quê dưỡng già. Dượng gầy gò, khổ người tầm thước, khuôn mặt vuông vức, đôi mắt sáng và vầng trán cao, mỗi khi thấy tôi sang chơi thì gọi vào xoa đầu và cho ăn kẹo bột. Cha tôi là Đinh Nho Huề, với dượng Tú Kiên là anh em cọc chèo. Dượng sinh năm 1879, hơn cha tôi 11 tuổi. Những năm 1928-1929, hai người cùng hoạt động bí mật trong tổ chức Tân Việt ở Sài Gòn, thời kỳ này dượng là Bí thư Kỳ bộ Tân Việt Cách mạng Đảng. Về quê ở được một thời gian, dượng lâm bệnh nặng rồi mất năm 1942, hưởng thọ 63 tuổi. Sinh thời cha tôi hay ôn lại quãng đời hoạt động sôi nổi, vào tù ra tội của dượng, mà đến hôm nay tôi còn nhớ rõ.
    |
 |
Nhà cách mạng Nguyễn Đình Kiên (1879-1942). Ảnh tư liệu. |
Dượng xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Năm Thành Thái thứ 18 (1906), dượng đỗ tú tài, từ đó gọi là Tú Kiên. Dượng là người quảng giao, toàn kết thân với những sĩ phu có tư tưởng yêu nước của xứ Nghệ như: Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, Giải nguyên Lê Văn Huân, Cử nhân Đặng Văn Bá, Tú tài Phạm Văn Thản... Dượng cùng các sĩ phu tham gia Triêu Dương thương điếm mở tại Vinh để gây quỹ vận động tham gia phong trào Đông Du. Dượng còn tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh “xin sưu, chống thuế” ở Hà Tĩnh do Nguyễn Hàng Chi và Trịnh Khắc Lập đứng đầu. Pháp sợ ảnh hưởng của Triêu Dương thương điếm liền thẳng tay đàn áp, truy bắt những người đứng đầu, trong đó có dượng, coi là “quốc sự phạm” đày ra Côn Đảo. Trong nhà tù thực dân, dượng bí mật cùng các đồng chí chuẩn bị một kế hoạch vượt ngục, đến đầu năm 1910 đã cùng hai bạn tù Kim Đài, Cửu Cai với hai thường phạm đóng bè vượt ngục thành công. Sau 6 ngày đêm lênh đênh trên biển, bè dạt vào Hàm Tân (Bà Rịa-Vũng Tàu). Lên bờ dượng gặp một đồng chí cũ là Nguyễn Hữu Huấn, sau được tri huyện Hàm Tân là Cử nhân Lương Trọng Hội ngầm giúp đỡ, dượng ra Phan Thiết, theo tàu buôn sang đất Quảng Châu, Trung Quốc. Ở đây dượng bắt liên lạc với cụ Phan Bội Châu đang đứng đầu tổ chức Việt Nam Quang Phục hội hải ngoại. Bị tên chỉ điểm là Phan Bá Ngọc nhận mặt, dượng bị bắt lại lần thứ hai tại Thượng Hải. Pháp đưa dượng về tòa thượng thẩm Hà Nội xét xử, lưu đày ra Côn Đảo 13 năm, mãi đến cuối năm 1924 mới được thả về.
Trở về quê, dượng Tú Kiên lại tiếp tục hoạt động trong Phục Việt Hội, sau đổi là Hội Hưng Nam, với những người chủ chốt của hội như: Giải nguyên Lê Văn Huân, Tiến sĩ Ngô Đức Kế, các nhà giáo Trần Đình Thanh, Tôn Quang Phiệt. Sau này, hội còn phát triển thêm những thành viên mới là các trí thức trẻ Tây học như Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Sỹ Sách, Đào Xuân Mai, Trần Ngọc Danh... Hội trở thành tiền thân của Tân Việt Cách mạng Đảng. Các năm 1928-1929, Tân Việt Cách mạng Đảng thành tổ chức chính trị mới là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, mở rộng phạm vi hoạt động ra cả nước. Dượng lại cùng nhiều đồng chí vào Sài Gòn tuyên truyền và phát triển đảng viên. Chỉ một thời gian ngắn, nhiều nhân sĩ, trí thức đã tình nguyện gia nhập tổ chức đảng ở Sài Gòn do Tú Kiên đứng đầu. Cha tôi ngày ấy vừa từ Hải Phòng vào Sài Gòn làm thư ký cho Hội Liên Thành, một tổ chức chính trị-kinh tế ngầm ủng hộ Tân Việt Cách mạng Đảng. Năm 1929, cha tôi đã xuất tiền mua vé tàu, bí mật đưa trót lọt các đồng chí Hà Huy Tập, Trần Ngọc Danh, Nguyễn Khoa Hiền xuất dương sang Hương Cảng (Hồng Công, Trung Quốc). Một sự kiện chính trị khác xảy đến ở miền Trung vào thời gian này khi dượng đã trở về quê. Vào giữa năm 1929, các chiến sĩ cộng sản ba miền như Trần Hữu Chương, Nguyễn Khoa Văn, Ngô Đình Mẫn, Ngô Đức Đệ, Lê Tiềm... tiến hành một cuộc họp bàn hợp nhất lực lượng. Cuộc họp diễn ra trong khoang con đò dọc xuôi sông La, nhưng vừa đến ngã ba sông rẽ theo kênh Nhà Lê, đoạn chảy qua xã Yên Hồ, Đức Thọ bây giờ, thì bị địch phục kích bắt gọn giải vào nhà lao Hà Tĩnh. Dượng Tú Kiên khi ấy vừa ở tù Côn Đảo về quê được ít bữa, tuy không có mặt trên thuyền nhưng vẫn bị địch cho là “lãnh tụ tinh thần” của nhóm chiến sĩ kể trên. Thế là dượng nhận thêm bản án 5 năm tù khổ sai nữa tại Khám Lớn, Sài Gòn. Như vậy, dượng là một trong những người đầu tiên sáng lập Tân Việt Cách mạng Đảng, 3 lần tù khổ sai tổng thời gian tới gần 25 năm. Theo PGS Đinh Trần Dương, trong bài nghiên cứu Từ Tân Việt đến Xô Viết Nghệ Tĩnh thì: “Tân Việt Cách mạng Đảng, tổ chức tiền thân của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời giữa những năm 20 của thế kỷ 20 đã có những đóng góp quan trọng trong việc vận động, tổ chức phong trào đấu tranh yêu nước và truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng yêu nước, cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Dượng có 3 người con trai. Con cả là Nguyễn Đình Đoàn, buổi đầu tham gia Tân Việt Đảng, bạn với Võ Nguyên Giáp. Thời kỳ ông hoạt động ở Nam Trung Bộ đã tác thành với con gái của Giải nguyên Lê Văn Huân là Lê Thị Tửu, sau này hai người đều tham gia lãnh đạo phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Người con thứ Nguyễn Đình Điền, sau Cách mạng Tháng Tám 1945 là Giám đốc Công an Liên khu 3. Còn con út Nguyễn Đình Diên, mới mất, nguyên Phó vụ trưởng Ủy ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước”.
Cũng giống nhiều vị khoa bảng yêu nước khác, nhà cách mạng Nguyễn Đình Kiên hay làm thơ để bày tỏ nỗi lòng. Phần cuối câu chuyện, GS Đinh Phạm Thái vốn là một nhà luyện kim màu có tiếng của Đại học Bách khoa, còn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam kể thêm với tôi về thơ của Tú Kiên. Theo GS, đến nay cụ Nguyễn Đình Kiên còn để lại khoảng một chục bài thơ, câu đối làm lúc trong tù và khi ở quê. Thơ cụ mạnh mẽ, thể hiện rõ quan điểm cách mạng, lại có cái nhìn lạc quan, pha chút trào lộng. Tiêu biểu như bài “Thơ trong tù”: Văn minh Âu Mỹ ba thằng cướp/Con cháu Rồng Tiên một lũ tù/Khôn khéo gì hơn tay có súng/Ngu hèn vì nỗi túi không xu/Trời đương quay tít, người chưa tỉnh/Giận muốn vỡ tan quả địa cầu. Hay bài “Cảm tác”: Hiu hắt năm canh bóng nguyệt tà/Nghĩ gần thôi lại nghĩ đường xa/Tù hai ba lượt còn ham sống/Tuổi bốn năm mươi chửa chịu già/Tư tưởng mênh mông trời đất hẹp/Phong trần lận đận tháng ngày qua/Trót lời thề hẹn cùng non nước/Gối kiếm thâu đêm đợi tiếng gà...
Tên tuổi của nhà cách mạng Nguyễn Đình Kiên đến nay còn ít được nhắc tới. Chúng tôi mong muốn các nhà nghiên cứu lịch sử cần tiếp tục tìm hiểu, sưu tầm thêm tư liệu về cuộc đời, sự nghiệp của một vị tiền bối cách mạng. Đã đến lúc, tên cụ cần được đặt cho con đường, hoặc trường học... để các thế hệ hôm nay, mai sau luôn tưởng nhớ về một người cộng sản đã hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
PHẠM QUANG ĐẨU