Ông là một “nhân vật đặc biệt” trong làng văn quân đội. Thời chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, ông ở chiến trường Khu 5 gian khổ ác liệt, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa sáng tác và đã có tác phẩm nổi tiếng Bức thư làng Mực (năm 1964). Sau ngày nước nhà thống nhất, một thời gian ngắn ông là Phó tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, còn chủ yếu có mặt ở những điểm nóng như biên giới Tây Nam, chiến trường Campuchia. Đến năm 1997, ông là trợ lý của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, quân hàm Thiếu tướng.

leftcenterrightdel
Anh hùng LLVT nhân dân Alăng Bhuôch (bên trái) và nhà văn Nguyễn Chí Trung. Ảnh do tác giả chụp lại

Vừa ngồi vào bàn tiếp tôi, tưởng ông sẽ có vài lời phàn nàn nào đó về cuộc họp vừa rồi, thì ông lấy trong tủ ra một tấm ảnh cho tôi xem và bảo: “Tôi vừa nhận được tin buồn về Alăng Bhuôch”. Hẳn người trong ảnh đứng bên ông là Alăng Bhuôch: Cao gầy, mặc cái áo phông cũ và đôi mắt bị mù lòa. Tôi phải thú thực với ông là chưa từng biết gì về người này. Nhà văn Nguyễn Chí Trung nhỏ nhẹ nói tiếp: “Anh hùng tải đạn. Suốt từ năm 1958 đến 1972, Alăng Bhuôch với cây gậy nhỏ dẫn đường đã gùi được tổng cộng 182 tấn hàng là vũ khí và lương thực cho bộ đội giải phóng. Ông ấy là nguồn cảm hứng cho tôi viết truyện Chỉ có hai người thông qua nhân vật Kơ Liu (tiếng Cơ Tu, Kơ Liu nghĩa là mù)”. Và nhà văn kể:

- Alăng Bhuôch kém tôi một tuổi, vừa qua đời tại quê ở tuổi 84. Ông sinh ra trong một gia đình Cơ Tu ở làng A Dứt, xã A Vương, huyện Tây Giang (Quảng Nam). Tôi lần đầu gặp ông trên dãy Trường Sơn, lúc ông đang tải đạn cho bộ đội trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Theo lời ông kể thì năm 10 tuổi, hai mắt bị đau kéo dài nhiều tháng, thầy lang trong bản nhỏ một loại nước giã từ rễ cây rừng và mắt sưng vù, cứ mờ dần đến khi không nhìn thấy gì nữa. Thời kỳ đế quốc Mỹ tàn phá quê hương, ông nhiều lần nghe tiếng máy bay gầm rú trên trời, tiếng trực thăng phành phạch rà sát ngọn cây, tiếng bom nổ rền, dân làng báo là nhà Gươl bốn mái bị bay tung rồi, nhà dài mấy chục sải tay cũng bị cháy rụi rồi... Ngày ấy ông cùng một số bà con chạy được vào rừng, tụ tập lại bảo nhau gùi vũ khí, lương thực cho bộ đội đánh giặc. Alăng Bhuôch cũng muốn đi gùi, nhưng nhiều người e ngại, mù hai mắt sao lội được suối, leo được dốc, luồn được bụi rậm? Ông nói: Cái mắt mình chết, nhưng mình không chết. Ngày với mình cũng là đêm thôi, mình còn gùi được cả ban đêm nữa. Không cho mình đi, nếu giặc đến nó có tha cho người mù như mình không? Cái lý ấy đã thuyết phục được mọi người, ông tham gia đoàn dân công tải đạn.

Những ngày đầu, trên vai hàng nặng 30-40kg ông theo không kịp, nhiều lần bị rớt lại. Nhưng ông không chịu bỏ cuộc. Với cây gậy gỗ nhỏ trong tay, ông đã vượt qua bao trở ngại trên đường, để cũng đến được đích như mọi người. Năm 1963, đoàn dân công của Alăng Bhuôch được điều đi tải súng đạn từ trạm A Rớt, xã A Nông đến trạm Cơrveh, xã A Tiêng. Ông được bổ sung vào đoàn Trung Sơn thuộc Tỉnh đội Quảng Đà, vận chuyển vũ khí, lương thực cho Kho 31 đóng tại hang Khỉ ở giữa huyện Hiên (Quảng Đà) và huyện A Lưới (Thừa Thiên-Huế). Chiến dịch Tết Mậu Thân 1968, ông gùi liên tục cả ngày lẫn đêm, lúc nào trên vai cũng có 70kg vũ khí. Có lúc ông còn cõng cả thân và đầu súng ĐKZ nặng ngót trăm cân. Sau chiến dịch năm ấy, ông đã được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua Quân khu 5.

Năm 1972, miền Tây Quảng Nam giải phóng, Alăng Bhuôch trở về quê cùng bà con xây dựng lại bản làng. Ông leo lên tận đầu nguồn thác tìm nước đưa về đồng ruộng, tự bỏ tiền túi mua ống nhựa dẫn nước và vận động mọi người trồng lúa nước, dẫn đầu huyện Tây Giang về tự túc lương thực. Tháng 8-2012, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân...

Cuối buổi, nhà văn Nguyễn Chí Trung kể với tôi một chuyện khi ông từ Tây Giang trở về:

- Lúc ấy, Alăng Bhuôch đã bị bệnh nặng, đi lại khó khăn. Ông bảo vợ lấy ra hai thứ mòn bóng dấu tay: Cây gậy gỗ và cây đàn Tâm Brê. Gậy là “con mắt” dò đường. Đàn Tâm Brê, chỉ riêng người Cơ Tu có, những khi nghỉ giải lao trên đường ông thường đàn cho dân công, bộ đội nghe cho đỡ mệt. Ông run run cầm hai thứ đó trao tận tay tôi, không nói lời nào. Tôi cảm nhận được đầy đủ sự tin cậy của tình bạn, tình đồng chí. Khi trở về Hà Nội, tôi đã đem hai kỷ vật ấy tặng Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Đó là hình ảnh sống động của người anh hùng huyền thoại từng bao năm nhẫn nại, gan góc đi tải đạn giữa đại ngàn Trường Sơn.

PHẠM QUANG ĐẨU