Cuộc đời cách mạng và làm báo của bác Đặng Minh Phương gắn bó với các tỉnh thuộc Quân khu 5. Bác cho biết: Vào năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã diễn ra sự kiện "nung muối" mà đến nay ít người được biết, liên quan đến “tổng chỉ huy hậu cần” tỉnh Quảng Đà Phạm Đức Nam (tức Sáu Nam).

Gọi sự kiện thì có vẻ to tát, nhưng quả thật ngày đó đã diễn ra một việc làm tưởng nhỏ mà có ý nghĩa lớn. Đó là thiết lập được một mạng lưới kho muối dự trữ không bị ảnh hưởng bởi thời tiết, dùng lâu dài cho kháng chiến, bắt đầu từ một cuộc thử nghiệm trong rừng Trường Sơn cách nay tròn 60 năm.

 Ông Phạm Đức Nam tên thật là Phạm Triêm, quê ở xã Điện Nam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Tham gia Việt Minh từ tháng 3-1945, hai năm sau, ông được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương. Sau Hiệp định Geneva, ông tập kết ra Bắc, không lâu sau đã bí mật trở lại quê hương chỉ đạo phong trào cách mạng. Ông tham gia Tỉnh ủy Quảng Đà từ năm 1960, là Phó bí thư Đặc khu ủy, phụ trách công tác hậu cần, bảo đảm lương thực, thuốc men, súng đạn và nhu cầu về tài chính cho chiến khu. Với tầm nhìn xa trông rộng, trong nhiều năm chiến tranh, ông đã tổ chức thành công việc sản xuất lương thực, thực phẩm ở hậu cứ. Đã có nhiều làng nóc của đồng bào Cơ Tu nghe lời Đảng, lời ông Sáu Nam ra sức trồng tỉa, ăn sắn, ăn rau rừng để dành gạo cho bộ đội. Nhưng muối thì phải đưa từ đồng bằng lên. Hạt muối lúc đó là hạt vàng; đã từng thiếu muối mà cả làng đau, cả làng chết. Những giỏ muối bộ đội gửi lại khi đi tập kết được đồng bào Cơ Tu gọi là “giỏ muối Bác Hồ”.

leftcenterrightdel
 Ông Phạm Đức Nam (1922-2004).

Do địch ráo riết phong tỏa chặt việc chuyển muối lên rừng nên quân dân 4 huyện miền núi căn cứ Quảng Đà lúc nào cũng trong tình trạng thiếu muối trầm trọng. Kho lớn nhất Hạ Sơn đến đầu năm 1961, sau khi đã phân phát cho toàn vùng chỉ còn 6-7 ang, chính Bí thư Tỉnh ủy Mười Khôi duyệt cấp muối và người trực tiếp phát muối là Phó bí thư Sáu Nam. Những người lãnh đạo ở Quảng Đà lúc đó đều sớm biết Mỹ-Diệm sẽ phá hoại Hiệp định Geneva, không thể có hòa bình tổng tuyển cử giữa hai miền Nam-Bắc. Đặc khu ủy đưa ra chủ trương: Tranh thủ lúc địch còn chưa phong tỏa hết các kho muối dưới đồng bằng, bằng mọi cách mua thu gom đưa ngược lên rừng, dự trữ muối càng nhiều càng tốt. Kết quả là trong những năm 1960-1961, bằng nhiều nguồn lực tổng hợp, ông Sáu Nam đã chỉ đạo đưa được nhiều tấn muối hạt lên căn cứ. Một yêu cầu đặt ra lúc ấy là muối phải rải đều nhiều vị trí trong rừng, nhất là những nơi bộ đội, nhân dân cần sử dụng trực tiếp. Như thế cần cất giấu phân tán, có sơ đồ, có đánh dấu mốc để dễ nhận ra. Khó nhất là việc bảo quản muối lâu dài ở những kho đó. Cái khó ló cái khôn, ông Sáu Nam nghĩ đến ngày xưa ở nhà má hay rang muối để ăn dần, muối gặp nóng chảy ra, dính quẹo thành từng lớp, vừa cứng vừa không dễ tan. Ông nảy ra ý tưởng nung muối để bảo quản lâu dài.

Trước tiên, anh em làm thí điểm ngay trên căn cứ. Ông chọn một mô đất cao không đọng nước, san phẳng nện kỹ nền kho, lót một lớp dày lá chuối rừng khô để chống ẩm mặt nền. Đổ muối hạt lên nền thành đống lớn. Lấy lá khô, củi khô, sau đó là củi tươi chất lên phía trên phủ kín đống muối rồi đốt liên tục ngày đêm. Nung đến khi chọc vào thấy chỗ nào muối cũng cứng lại như đá mới thôi. Quả nhiên sau khi nguội, lớp muối ngoài cùng nung chảy đã kết lại như màng thủy tinh dày, cứng trùm lên “ngôi mộ”, đổ nước truội đi không thấm vào trong lõi. Cuộc nung muối thí nghiệm thành công ngoài mong đợi vào tháng 9-1961 tại một kho của căn cứ Trà My trên dãy Trường Sơn. Ngay sau đó, ông Sáu Nam cho triển khai hàng loạt kho muối lộ thiên kiểu ấy, số muối được nung rải khắp các căn cứ của tỉnh Quảng Đà đến hàng trăm tấn. Nhờ những kho muối nung được bí mật giấu trong rừng già, cùng những “rừng sắn cách mạng”, “rẫy lúa Bác Hồ” đã trồng mà hàng vạn con người ở cơ quan đầu não tỉnh cùng đồng bào, bộ đội trên rừng Trường Sơn thoát được cảnh đói cơm, khát muối.

Bác Đặng Minh Phương cho biết, sau ngày thống nhất đất nước, có nhiều cuộc tìm về nguồn. Lần theo sơ đồ mà ông Sáu Nam đã lập, người ta tìm được ở căn cứ một số ụ muối nung sót lại, đã qua hàng sáu, bảy năm bị lá cây mục đổ dày bên trên, dỡ ra kho muối vẫn còn tốt nguyên. Lớp vỏ cứng chắc đến nỗi phải dùng búa hay chòng đục mới khơi ra được, trong ruột, hạt muối vẫn khô như lúc mới mua về. 

Sau ngày nước nhà thống nhất, ông Phạm Đức Nam là Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Trên mặt trận nông nghiệp, ông lại phát huy sự năng động, sáng tạo, xây dựng lại hệ thống thủy lợi, mở ra vụ lúa mới xuân hè, tăng sản lượng lương thực toàn tỉnh lên tới 20%. Thời chiến, ông được anh em gọi vui là “người nung muối”; thời bình, ông được bà con nông dân thân mật đặt cho cái tên mới là “Phạm Xuân Hè”. Do có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, ông Phạm Đức Nam đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Quyết thắng hạng Nhất và nhiều phần thưởng cao quý khác. Ông mất năm 2004, hưởng thọ 82 tuổi.

PHẠM QUANG ĐẨU