Tuổi 17, học chưa hết phổ thông, chiến trường giục giã, giữa năm 1965, Phạm Thị Bích Nhị cùng bạn bè theo Tỉnh đoàn Ninh Bình đi thanh niên xung phong vào tuyến lửa. Sau mấy tháng lội bộ ròng rã, Nhị được biên chế vào Binh trạm 12, Đoàn 559, có nhiệm vụ vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược cho bộ đội ta qua các trọng điểm, cửa khẩu theo Đường Hồ Chí Minh, từ Quảng Bình đến biên giới Việt-Lào và đưa các thương binh về các binh trạm điều trị. Nhớ lại những năm tháng sôi động ấy, bà Nhị nói: “Tuổi trẻ mà, gian khổ, ác liệt, xẻ dọc Trường Sơn nhưng cứ phơi phới. Bao gạo cả tạ vậy mà chỉ cần hai người đỡ vào vai là tôi có thể cõng lên xe nhanh gọn. Còn loại 50kg ấy thì cứ tự bốc vác chạy như bay. Thùng phuy xăng dầu to nặng là vậy mà lăn ào ào. Có lần chứng kiến hai cô bạn cùng làng là Tuất và Hiền hy sinh bởi máy bay địch ném bom, ai nấy đều bàng hoàng. Vậy mà khi đặt lên mộ bạn nắm hoa mua, chúng tôi lại nhớ lời khẳng định như đinh đóng cột của Bác Hồ năm 1966: “Chống Mỹ, cứu nước, ta nhất định thắng”. Hứa với Bác quyết bám trụ Trường Sơn, thi gan cùng giặc Mỹ. Chiếc túi tử sĩ được trang bị cho mỗi người lại được chiến sĩ cho vào ba lô mỗi khi hành quân như một điều quá đỗi bình thường…”.
Sau thanh niên xung phong, bà Nhị được chuyển qua phục vụ ở Tiểu đoàn Vận tải 734, làm công tác hậu cần cho đơn vị. Tại đây, bà gặp tình yêu duy nhất của mình. Ông Nguyễn Tiến Đệ trước đây là lính công binh cũng thuộc đường dây 559, sau này làm trợ lý chính trị cùng tiểu đoàn. Ông để ý và xao xuyến khi bắt gặp bà gội đầu bên con suối róc rách. Mái tóc mây còn dày dặn chưa bị xơ xác như sau này. Còn bà cứ vô tư xưng hô thủ trưởng đầy kính trọng. Thời đó, kỷ luật chiến trường rất nghiêm. Bà được dặn, nữ quân nhân không được yêu sớm trước 7 năm phục vụ. Vi phạm sẽ bị đưa về tuyến sau, điều mà không ai muốn. Chính vì thế, cô gái Bích Nhị rất “tồ” trong các mối quan hệ khác giới. Có lần, mỗi người được ưu tiên chia nửa con gà trước khi đi chiến dịch, Nhị xé ăn ngon lành. Sau này ông Đệ trêu mãi rằng bà không ý tứ gì cả. “Nam thực như hổ, nữ thực như miu” mới đúng chứ...
Bà không hề để ý đến ông hay bất cứ ai khác cho đến khi ông cắt lá, lợp lại cái chòi tắm cho chị em giữa núi rừng, còn vác đá làm dãy tam cấp từ sườn đồi xuống bờ suối. Vậy là người đàn ông chu đáo, sâu sắc ấy đã ghi điểm trong mắt bà. Nhớ nhất là trước ngày đi qua chiến trường Lào, ông kiếm lá cây về nhuộm chiếc áo của mình. Bà ngang qua thấy vậy, nhờ vả: “Đồng chí nhuộm giúp tôi nữa nhé”. Hai ngày sau, ông mang qua lán nữ gửi chiếc áo đã nhuộm. Mở ra bên trong, bà thấy mảnh giấy nhỏ có mấy câu thơ: “Anh nhuộm cho em chiếc áo màu xanh/ Chiến tranh em ơi, không cần màu áo trắng” (ý thơ Tố Hữu). Bà bỗng thấy có sự đồng điệu lạ kỳ giữa hai người. Biết cô gái Ninh Bình đã “xiêu”, ông liên tục “tấn công” bằng những mảnh giấy nhỏ chứa một trời thương nhớ. Sợ đơn vị phát hiện, thư đọc xong, bà đốt ngay. Cứ thế 5 năm bền bỉ, tình yêu chín dần trên những cung đường họ đi qua. Biết lo cho nhau khi ai đó theo xe vào tuyến trước và mừng vui tột độ khi một nửa của mình bình yên trở về. Giữa năm 1970, Thượng sĩ Bích Nhị mới dám công khai mối tình đầu với tổ chức và được ủng hộ nhiệt liệt. Vậy là cặp đôi Đệ-Nhị cùng với hai cặp đôi khác là Bảo-Huệ và Thanh-Phấn được đơn vị cho xe đưa ra huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình để đăng ký kết hôn, chụp tấm ảnh chung, mua 2 mét vải, 4 cây thuốc lá cho tiệc cưới sắp tới. Sau khi cả đơn vị chở hàng phục vụ chiến dịch trở về, buổi lễ mừng công kết hợp đám cưới tập thể được tổ chức ngay ở cung trạm. “Bảo hái hoa huệ trên Trường Sơn. Bảo khen huệ rất thơm. Đệ nói hoa thơm bởi nhị. Thanh rằng, phấn cũng ngát mùi hương…”-những câu thơ về tên của ba cặp đôi được kết hợp khá điệu nghệ đọc tại liên hoan khiến ai nấy nhớ mãi.
Năm 1971, từ đất Lào, toàn đơn vị nhận lệnh vào chiến trường B. Lúc đó, 3 cô dâu đều đã bụng bầu vượt mặt không thể đi tiếp mà được ra quân về miền Bắc sinh nở. Tiêu chuẩn được cấp là 2 tạ gạo mỗi người, như vậy đã là quá lớn so với thời đó. Vậy là ông hộ tống vợ về quê bà thay vì về nhà chồng bởi bên ông neo người. Hạnh phúc lớn nhất là hai tháng sau, ngày bà vượt cạn cũng là thời điểm ông ra Hà Nội nhận xe tải nên cùng bà đón cậu con trai đầu lòng. Sau đó, ông đi một mạch đến giải phóng miền Nam không hề thư từ. Đến năm 1976, sắp xếp xong việc, ông mới về với vợ. Đứa con đỏ hỏn năm nào giờ đã đi học kiên quyết không gọi ông là bố, không cho bế bồng. Mấy năm sau, ông đưa bà vào Đà Nẵng làm công nhân viên quốc phòng, tặng thêm cho bà đứa con thứ ba rồi rong ruổi qua chiến trường K, sau về làm Phó chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Kon Tum trước khi về hưu.
Trút bộ quân phục, vẫn hừng hực như người lính Trường Sơn năm nào, ông nhận làm bí thư chi bộ, xây dựng các tổ chức quần chúng của địa phương có nhiều hoạt động nổi trội. Hoạt ngôn, hát hay, ở đâu ông Đệ cũng mang lại niềm vui cho những người xung quanh. Ông khởi xướng tổ chức đám cưới vàng, đám cưới bạc cho các cặp đôi trong chi bộ. Bản thân vợ chồng ông cũng kỷ niệm 45 năm ngày cưới, rực rỡ sắc màu như bất cứ cặp đôi trẻ nào.
Bệnh đột quỵ năm 2016 khiến Đại tá Nguyễn Tiến Đệ rời xa mãi mãi người vợ tảo tần và tổ ấm của mình, nhưng trong ký ức của gia đình và đồng đội, tình yêu thủy chung của hai người lính Trường Sơn vẫn luôn được mọi người ngưỡng mộ.
Bài và ảnh: HỒNG VÂN