leftcenterrightdel
Bút tích Bác Hồ sửa Quốc ca, tháng 8-1945. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh

Bác Hồ tiếp nhận thơ theo đặc trưng cơ bản của thể loại: Thơ là tiếng nói của tình cảm. Điều này thể hiện qua một lần nói chuyện, Người giải thích cái hay của Truyện Kiều: “Thể thơ Việt Nam, được dân ta ưa thích, phải kể có lục bát. Chú hãy xem, không người nào không nhớ một câu Kiều. Chú có rõ Kiều hay như thế nào không?... Chính vì, không ai đọc là không thấy tình cảm của mình ít nhiều trong đó, do đó, Truyện Kiều hấp dẫn người đọc”. Không chỉ căn cứ vào đặc trưng nội dung, rộng hơn còn là vấn đề thể thơ được ưa thích, là tâm lý tiếp nhận của đông đảo quần chúng. “Không ai đọc là không thấy tình cảm của mình ít nhiều trong đó”. Đây là lối tiếp nhận hiện đại, đề cao vai trò bạn đọc, cũng là một quy luật vận động của tác phẩm nghệ thuật kinh điển: Phải có tư tưởng lớn, phải mang ý nghĩa phổ quát là tiếng nói nhân sinh nói chung, vừa phải sâu sắc, nói được những nỗi riêng thầm kín của con người cá thể.

Tháng 3-1930, tại nước Xiêm (Thái Lan), cụ Tài Ngôn đọc cho Thầu Chín (Bác Hồ) câu thơ: “Cha ông đâu, sông núi nơi đâu? Đất lạ tháng ngày trơ mặt bạc/ Anh em hỡi, đồng bào ta hỡi! Thù chung non nước tạc lòng son”. Ý cụ Tài Ngôn là chê những người Việt kiều giàu có mà khi quyên góp chẳng được bao nhiêu (trơ mặt bạc) cho cách mạng. Thầu Chín nói ngay: “Chắc anh lại đả kích ông X chứ gì. Người ta chưa giác ngộ một phần cũng do ta chứ. Đã là đồng bào, đã mất nước thì ai cũng thẹn mặt cả. Nên đổi là “Đất lạ tháng ngày thẹn mặt”. Câu sau cũng nên đổi “Thù chung non nước ghi lòng”. Rõ ràng sự chữa này nâng tầm câu thơ có ý nghĩa khác hẳn, nhân ái, đoàn kết, bao dung. Không có sự tinh tế nghệ sĩ, không có tấm lòng yêu nước sẽ không có cách dùng từ như thế.

Nhà báo Đặng Minh Phương kể Bác Hồ sửa thơ ông Phạm Khắc Hòe: “Đêm 4-9-1947, trong khi trò chuyện, Bác Hồ nhìn ra cảnh rừng rồi nói với ông Phạm Khắc Hòe: “Gió mát, trăng thanh, trời xanh, rừng lặng, cảnh nên thơ lắm! Chú có cao hứng thì tức cảnh ngay một bài. Nếu không thì đọc vài bài cũ cũng được”. “Thưa Bác, cháu xin đọc một bài cháu vừa làm trên đường lên đây. Đầu đề là Đường tự do: “Biết bao ngày đợi với chờ mong/ Giặc Pháp, từ nay thoát khỏi vòng/ Chào đón trên đường hương lúa mới/ Tiễn đưa dưới nước ánh trăng vàng/ Gió Đền Hùng thổi căng lồng ngực/ Mắt Bác Hồ soi sáng cõi lòng/ Đường tự do con đường đẹp nhất/ Trường kỳ kháng chiến ắt thành công!”. Nghe đọc xong, Bác Hồ nói ngay: “Khá đấy, ý tốt nhưng lời thì hai câu thứ năm và thứ sáu hơi gò”. Bác hỏi tiếp: “Khi bị kẹt trong vùng địch chú có làm thơ không?”. “Dạ thưa Bác, có ạ! Cháu xin đọc bài Câu cá gỗ: “Hỏa Lò, Tây đến rước ông ra/ Hỏi dẫn đi đâu chẳng biết mà/ Cất cánh Gia Lâm trời đất cũ/ Đặt chân Sơn Nhất nước non nhà/ Vai tù muốn đổi ra vai tướng/ Chước quỷ không thành lại chước ma/ Ba tháng công toi câu cá gỗ/ Hồ Gươm, Tây lại thả ông ra”. Ông vừa dứt lời thì Bác cười và nói: “Mình thích bài này hơn bài trước nhiều, nhưng phải sửa một chữ”. Ông hỏi cần sửa chữ gì, Bác nói “phải để tác giả tự sửa chứ”. Qua một đêm mà ông chưa nghĩ ra, đành phải hỏi Bác. Bác nói: “Câu cuối cùng phải thay thế chữ “ông” bằng chữ “tau” thì mới đúng là “câu cá gỗ”. Trở lại với bài thơ đầu, chúng ta dễ thấy, Bác nhận xét câu thứ năm và thứ sáu: “Gió Đền Hùng thổi căng lồng ngực/ Mắt Bác Hồ soi sáng cõi lòng” “hơi gò” là chính xác vì sáo, khoa trương, ý tứ lộ, nhất là ca ngợi Bác với hình tượng “mắt” cụ thể, không phù hợp với hai chữ “cõi lòng” trừu tượng, thành ra ý tốt mà thô vụng. Còn bài thơ sau thì quả là phải là dân “cá gỗ” thì mới dùng đúng chữ “tau” ngộ nghĩnh, đầy cá tính!

leftcenterrightdel
Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ II, ngày 28-2-1957. Ảnh tư liệu

Thời kỳ ở Việt Bắc, một hôm thấy anh Bình (cán bộ giúp việc) ngồi viết, Bác hỏi: “Chú viết gì?”. “Thưa Bác, cháu đang làm thơ tả về túp lều tranh”. Rồi anh Bình đọc: “Một túp lều tranh vách đá rêu/ Trên dòng khe nhỏ nước vui reo/ Nắng xuyên cành lá tung hoa nắng/ Cây ngập sườn non lấp lối vào/ Chim hót trong rừng cây bát ngát/ Gió lùa cùng những đóa hoa reo”. Nghe xong, Bác hỏi về hai câu kết. Anh Bình nói: “Thưa Bác, khó quá, cháu chưa nghĩ được”. Bác nói: “Vậy chú ghi tiếp vào: “Vì chưng công việc còn bề bộn/ Đâu dám nghêu ngao sớm lại chiều”. Như vậy, Bác đã đưa hình ảnh con người vào thơ, vì 6 câu trên mới chỉ là hình ảnh Việt Bắc: Túp lều, vách đá, cành lá, nắng, cây, sườn núi, rừng cây, chim, hoa... Phần trước bài thơ là cảnh, có hai câu sau mới thêm tình. Nhưng cũng là một cách gián tiếp nhắc nhở nhiều người (có cả anh Bình) là trong lúc tập trung kháng chiến thì không nên “nghêu ngao” thơ phú nhiều!

Những năm miền Bắc mới giải phóng, một lần nghệ sĩ Vũ Thị Tý hát cho Bác nghe. Chị ca vở kịch thơ Vẹn cả đôi đường (tác giả Xuân Bình), có đoạn: “Yêu anh mũ cứng sao vàng/ Ngày đêm giữ vẹn xóm làng yên vui!”. Nghe xong, Bác cười nói: “Bộ đội có mũ cứng, mũ mềm, nay lại có cả mũ kê-pi nữa, sao lại chỉ yêu anh mũ cứng. Bác sửa lại thế này có được không: “Yêu anh mũ đính sao vàng”. Bác chỉ thay chữ “cứng” (tính từ) thành “đính” (động từ) làm ý thơ mới, sinh động hơn hẳn. Tới đoạn hát ru con: “Mẹ no thóc gạo, con no sữa đầy...”, Bác lại bảo: “Để Bác chữa thế này, cháu có hát được không: “Mẹ no thóc đủ, con no sữa đầy...”. Đúng là dùng “thóc gạo” cụ thể quá thành kể lể, vả lại thóc và gạo tương đồng, đẳng lập về nghĩa. “Thóc đủ” còn nói thêm được cái ý về cuộc sống đã ấm no, đầy đủ hơn, do vậy ý thơ lạc quan hơn.

Nhà thơ Tiêu Tam (Trung Quốc) kể, ngày 1-6-1960, ông được mời đến gặp Bác Hồ. Nhà thơ khoe mới làm được bài thơ Phú vịnh Hạ Long. Khi Tiêu Tam hỏi ý kiến Cụ, Cụ Hồ đã chữa câu “Thủy liên thủy/ Thủy liên sơn” thành “Sơn liên thủy/ Thủy liên sơn”. Tiêu Tam chữa tiếp thành “Thủy liên thiên”. Cụ Hồ vui vẻ khen “Hay!”. Cuối cùng thành bản chính thức: “Sơn liên thủy/ Thủy liên thiên/ Sơn thủy thiên địa đại đoàn viên”. Đúng là chữa “Thủy liên thủy” thành “Sơn liên thủy” thì không gian hình ảnh thơ được mở rộng hơn (cũng đúng hơn với thực tế phong cảnh vịnh Hạ Long), tình thơ lai láng hơn, ý thơ sâu sắc hơn; đúng với đặc trưng thơ cổ phương Đông, câu thơ ngắn gọn, hàm súc, tả ít gợi nhiều, rất mực trong sáng, thanh thoát, nhất là ý thơ nói về sự “đại đoàn viên” của thiên nhiên cũng là của lòng người. Người viết bài này xin phép được dịch nghĩa: Núi liền nước/ Nước liền trời/ Núi biển đất trời đại đoàn viên.

Qua một số ví dụ trên cho thấy, Bác Hồ chú ý đến sự phát huy một cách cao nhất nghĩa trong từng chữ để hình tượng thơ đạt mức khái quát cao nhất. Rất cụ thể, chi tiết, tinh tế mà cũng rất bao quát, vĩ mô, rộng, thoáng. Đó cũng là biểu hiện một tài năng nghệ thuật, một tâm hồn nghệ sĩ!

PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ