Với họ, bao nhiêu là bỡ ngỡ, dằn vặt, khó khăn giống như “một cuộc lột vỏ... da non mới mọc chưa lành, một cái gì chạm phải cũng nhỏ máu”. Nhưng với khẩu hiệu: “Tất cả cho kháng chiến, tất cả cho dân tộc”, họ đã vượt qua tất cả. Đi kháng chiến bằng tài năng và sức lực của mình. “Những ngày tháng Tám, chúng ta bước từ một thời đại lịch sử sang một thời đại mới. Hàng chục triệu con người ra khỏi những khoảng đêm đẫm máu, rỏ nước mắt khóc, vui sướng ôm lấy nhau, quàng nhau dưới bóng cờ đỏ, vùng dậy trước mũi súng ngơ ngác của tụi phát xít Nhật. Mỗi người chúng ta không còn yếu ớt riêng lẻ. Chúng ta đã tìm thấy bao trùm lên chúng ta, bao trùm lên gia đình làng xóm chúng ta còn cái lớn lao chung: Ấy là dân tộc”-nhà văn Nguyễn Đình Thi viết.

Tìm về dân tộc, trên hành trình ấy, nhiều văn nghệ sĩ sau đó, vào năm 1948 đã đầu quân. Lịch sử rồi sẽ còn ghi, những năm tháng sau cuộc “nhận đường” đầy vất vả đó, phong trào văn nghệ sĩ đầu quân, tự nguyện và đông đảo theo tiếng gọi cứu nước của dân tộc, của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

leftcenterrightdel
Nhà báo Nguyễn Đình Thi thời kỳ làm Báo Độc lập và Tạp chí Tiên phong.

Cho đến bây giờ, hơn 70 năm kể từ ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) đã đi qua, có lẽ chưa có một người làm văn học sử nào khẳng định được phong trào ấy có bao nhiêu văn nghệ sĩ tham gia. Nhưng một điều biết rõ, biết chắc là con số ấy khá đông, kể tới hàng trăm con người ở khắp các chiến trường từ Việt Bắc qua Khu 5, Khu 4 cũ, vào mãi miền Đông, miền Tây Nam Bộ và lên tận Tây Nguyên.

Trên mảnh đất Thanh Hóa, lúc bấy giờ có nhiều anh em trong giới cầm bút và nghệ sĩ từ Hà Nội, từ Khu 3 vào như: Sỹ Ngọc, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Đức Nùng (họa sĩ), Phạm Văn Trừng (nhạc sĩ), Nguyễn Đình Lạp (“vua phóng sự” Hà thành), Bửu Tiến, Trọng Miên (tiểu thuyết gia)... Nhà văn Thanh Châu kể: “Hồi đó ở Ban Văn nghệ (Phòng Chính trị Quân khu 4) được một thời gian, các văn nghệ sĩ được phân công đi các mặt trận rải khắp từ Chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị) đến Chiến khu Ngọc Trạo xứ Thanh. Riêng Nguyễn Đình Lạp được phân công về với Đại đoàn 304. Ở đây, ông đã viết những phóng sự chiến tranh như: Thôn Lệ Sơn, Cảnh Dương chiến đấu... Ông mất năm 1952 ở Thanh Hóa khi vừa hoàn thành bản thảo tập Chiếc vali trên chiếc tàu Amyot D’Inville.

Nam Bộ, khi Ban Tuyên huấn Bộ tư lệnh Chiến khu 8, căn cứ Tháp Mười và cả khu vực “miền Đông gian lao mà anh dũng” cũng trở thành nơi hội tụ của những văn nghệ sĩ kháng chiến đông đảo, trong đó có những trên tuổi như Huỳnh Văn Nghệ (tướng quân thi sĩ); Diệp Minh Châu, Hoàng Tuyền-những họa sĩ đã chích máu mình vẽ hình Bác Hồ kính yêu; Bảo Định Giang-tác giả câu ca dao bất hủ: “Tháp Mười đẹp nhứt bông sen/ Việt Nam đẹp nhứt có tên Cụ Hồ”...

Việt Bắc, căn cứ địa kháng chiến, phong trào văn nghệ sĩ đầu quân rầm rộ hơn, đông đảo hơn. Ngay từ những ngày đầu năm 1947 ở Vệ quốc quân-tờ báo tiền thân của Báo Quân đội nhân dân đã thấy có Thâm Tâm (tác giả Tống biệt hành, người có tên trong Thi nhân Việt Nam xuất bản từ năm 1942) làm thư ký tòa soạn, có Thôi Hữu (tức Tân Sắc), Mai Văn Hiến, Dương Bích Liên (họa sĩ tốt nghiệp Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương).

Những văn nghệ sĩ đầu quân trở thành nhà báo kháng chiến không chỉ tập trung ở Vệ quốc quân mà còn rải rác ở các tờ báo của các quân khu, đơn vị. Báo Xông pha, tờ báo của bộ đội Hà Nội có nữ sĩ Vân Đài-tác giả tập “Hương xuân” (thơ năm 1943), cây bút quen thuộc của các tờ Phụ nữ tân văn, Phụ nữ thời đàm xuất bản trước Cách mạng Tháng Tám; thi sĩ Hoàng Lộc-tác giả các tập thơ: “Lời thông điệp”, “Viễn phố”, “Từ hoàng hôn đến bình minh”... Nói về trường hợp Hoàng Lộc đầu quân tham gia kháng chiến, nhà phê bình văn học Nhị Ca viết: “Đáng nhớ hơn nhiều là không khí những đêm khuya, trên cái nền âm thanh rì rào xao động, điểm tiếng mang tác, hổ gầm, tiếng cối giã gạo điểm nhịp ngoài suối, dưới ánh nến nhựa trám bập bùng, tuôn khói khét lẹt, Hoàng Lộc cởi trần, đầm đìa mồ hôi ngồi viết “Chặt gọng kìm Đường số 4”, trong đó có bài thơ “Viếng bạn” nổi tiếng với những dòng chữ to như hòn bi, tập giấy bản bút mực nhòe nhoẹt. Anh vừa cùng Đông Hoài từ biên giới về, sau khi đã dự trận Bông Lau. Mắt anh sáng lên một cách kỳ lạ, ánh sáng của phút phân thân sáng tạo?”.

Ở các đoàn văn công quân đội cũng có không ít văn nghệ sĩ tiền chiến tham gia, tiêu biểu trong số này là Thanh Tịnh-thi sĩ xứ Huế, người có chân trong “Thi nhân Việt Nam”. Ông từ Huế ra Việt Bắc phụ trách Đoàn kịch Chiến Thắng và là người đầu tiên đặt nền móng cho thể loại tấu nói, một loại hình sân khấu rất thích hợp với bộ đội, với kháng chiến…

Phong trào văn nghệ sĩ đầu quân những năm đầu Toàn quốc kháng chiến đã thu hút đại đa số văn nghệ sĩ cả nước tham gia. Xóm Chòi (Đại Từ, Thái Nguyên) đã trở thành một địa chỉ quen thuộc của những người cầm bút kháng chiến. Sự có mặt của các tên tuổi như: Nguyễn Tuân, Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tú Mỡ, Xuân Diệu, Tế Hanh, Huy Cận, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Lưu Trọng Lư, Tô Hoài, Tô Ngọc Vân, Nguyên Hồng... ở chiến khu đã chứng tỏ đường lối kháng chiến của Đảng ta là rất đúng đắn, rất hợp lòng người. Trong lịch sử dân tộc, chưa có một chế độ nào lại có thể tập hợp được một đội ngũ văn nghệ sĩ to lớn, đông đảo đến như vậy. Năm 1948, hội nghị văn nghệ toàn quốc khai mạc; năm 1949, hội nghị văn nghệ bộ đội tổ chức, tiếp liền là hội nghị tranh luận văn nghệ... Đó là những sự kiện văn nghệ lớn, tập hợp nhiều cây bút, đặt ra nhiều vấn đề của văn học-nghệ thuật; đồng thời, đó cũng là ngày hội của giới văn nghệ, báo chí trong và ngoài lực lượng vũ trang. Mai này rồi thời gian sẽ làm phai nhạt đi nhiều thứ, nhưng những hình ảnh Nguyễn Tuân, Trần Đăng... đi chiến dịch, trường hợp hy sinh của Nam Cao, Tô Ngọc Vân, Trần Mai Ninh, Nguyễn Đình Lạp, Hoàng Lộc... mãi mãi là những hình ảnh đáng nhớ, đáng trân trọng của lớp người cầm bút thế hệ tiếp sau. Và hình ảnh Thâm Tâm ngồi bên bàn tưởng như “cột sống làm bằng sắt”, Mai Văn Hiến, Nguyễn Bích hí hoáy vẽ những chàng “vệ túm” thật bộ đội, rất chiến khu, cùng những ấn phẩm in vội trên giấy dó mỏng xốp còn lưu lại đến hôm nay, mãi mãi là dấu ấn của một thời văn nghệ hồn nhiên, trong sáng và chứa chan nhiệt huyết…

Sự có mặt của các văn nghệ sĩ lớp trước ở chiến khu đã tạo môi trường văn nghệ, tạo đà cho sự xuất hiện lớp “nhà văn trung úy” mới trong bộ đội. Đó là những nhà văn, nhà báo “con đẻ” của cách mạng, của kháng chiến. Họ không còn phải trải qua những cuộc “nhận đường”, những cơn dằn vặt đến rỏ máu nữa mà cứ thế bước vào cuộc chiến, bước vào văn học và tự hoàn thiện mình. Đó là: Chính Hữu, Hồ Phương, Hữu Mai, Vũ Cao, Vũ Tú Nam, Hoàng Văn Bổn, Nguyễn Khải, Từ Bích Hoàng, Nguyễn Ngọc Tấn, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Đăng, Nguyễn Đình Tiên, Mai Ngữ, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng... những nhà văn đã tạo nên những tác phẩm đứng ở đầu nguồn dòng văn học cách mạng kháng chiến.

Phong trào văn nghệ sĩ đầu quân những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp là một sự kiện lớn của lịch sử văn học cách mạng Việt Nam. Vạch đường lớn cho văn nghệ sĩ “nhận đường”, phát động phong trào “văn nghệ đầu quân”, trên thực tế, Đảng ta đã tiến hành một cuộc vận động văn hóa vĩ đại vì mục tiêu cách mạng, vì lợi ích sống còn của dân tộc và vì cả sự hoàn thiện mình của những người cầm bút.

Khi viết bài báo “Nhận đường”, nhà văn, nhạc sĩ, nhà báo Nguyễn Đình Thi mới 23 tuổi (ông sinh cuối năm 1924). Một “tài năng không đợi tuổi”! Lúc nhỏ, ông theo gia đình từ Luang Prabang (Lào) về nước và đi học tại Hà Nội và Hải Phòng. Năm 1941, tức là khi tròn 17 tuổi đã tham gia hoạt động cách mạng, dịch và viết sách triết học. Năm 1943, 19 tuổi tham gia Hội Văn hóa cứu quốc (phụ trách Báo Độc lập, tham gia làm Tạp chí Tiên phong-những tờ báo của Đảng). Cũng trong thời gian này, ông đã sáng tác bài hát nổi tiếng “Diệt phát xít”. Hai năm sau, tháng 8-1945, ông tham gia Quốc dân đại hội ở Tân Trào và là đại biểu trẻ nhất, 21 tuổi được bầu vào Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam gồm 15 người do Bác Hồ làm chủ tịch. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông được bầu làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc, Ủy viên Ủy ban dự thảo Hiến pháp, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa I). Cuốn tiểu thuyết “Xung kích” được trao Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam 1951-1952… Ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật đợt đầu tiên và mất năm 2003 tại Hà Nội.

Thập tam trại, tháng 5-2020

NGÔ VĨNH BÌNH