Theo chương trình, còn nửa tiếng nữa buổi nói chuyện, đọc thơ của nhà thơ Thu Bồn mới bắt đầu nhưng từ sáng sớm, các chỗ trống đã được lấp đầy. Sài Gòn giải phóng mới được ít hôm, đây có thể là buổi sinh hoạt mang tính chất văn hóa, văn nghệ đầu tiên của thanh niên, sinh viên thành phố dưới chính quyền cách mạng, mà diễn giả là một nhà thơ-chiến sĩ. Chưa một lần được tiếp xúc với “người của cách mạng”, cũng chưa khi nào được nghe một nhà thơ-chiến sĩ Quân Giải phóng đọc thơ nên trong nỗi háo hức còn có sự tò mò. Nhiều cô, cậu sinh viên còn đem theo cả sổ tay như muốn ghi lại những cảm xúc trước sự kiện đặc biệt này.

Rồi nhà thơ Thu Bồn xuất hiện, anh vẫn mặc nguyên bộ quân phục, đầu đội chiếc mũ tai bèo. Chiều qua, khi anh ghé trụ sở cơ quan tôi, Tạp chí Văn nghệ Quân Giải phóng trên đường Trần Hưng Đạo, quận 1, tôi có nghe anh thông tin với nhà văn Nguyễn Trọng Oánh về buổi nói chuyện, đọc thơ này. Thế nên bây giờ tôi cũng có mặt ở đây như một cử tọa. Nghe tên và đọc thơ Thu Bồn đã nhiều, nhưng đây là lần đầu tiên tôi diện kiến anh. Ngoài sự ngưỡng mộ còn có niềm tự hào được là đồng đội, đồng nghiệp của anh, dẫu tôi mới “chập chững” cầm bút.

Thu Bồn tên thật là Hà Đức Trọng, quê ở xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, một vùng quê nổi tiếng ác liệt trong chiến tranh, là địa phương đi đầu trên mặt trận đấu tranh của quê hương “trung dũng, kiên cường”. Năm 11 tuổi, chàng trai Hà Đức Trọng vào thiếu sinh quân, và anh đã đi hết các cuộc kháng chiến: Chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc; gắn bó với chiến trường Khu 5 từ khi vào bộ đội cho tới ngày kết thúc chiến tranh. Sau khi thành danh, anh được điều về công tác ở Tạp chí Văn nghệ quân đội rồi lại tiếp tục khoác ba lô trở lại chiến trường quen thuộc Khu 5 với tư cách nhà thơ-chiến sĩ. Thu Bồn là bút danh lấy tên một dòng sông quê hương Quảng Nam của nhà thơ-dòng sông ấy được anh mô tả: “Dòng sông rộng quá nên lai láng/ Nhịp cầu thương tiễn ta đi xa/ Hỡi con ngựa chiến tuôn về biển/ Bất kham dừng lại hóa phù sa”.

leftcenterrightdel

Chân dung nhà thơ Thu Bồn. Ảnh tư liệu

Mọi người đang râm ran trò chuyện, bỗng lặng yên. Sau đó, những tràng vỗ tay nổi lên, kéo dài cho tới khi Thu Bồn bước lên chiếc bục kê cao giữa sân trường sau lời giới thiệu của một cán bộ trong ban tổ chức. Vóc người to cao, nước da ngăm đen vì nắng gió, trông Thu Bồn khỏe khoắn, mạnh mẽ giữa những gương mặt sinh viên trẻ trung non nớt đang ngồi phía dưới. Từ nơi đứng, nhà thơ nhìn bao quát khắp khuôn viên sân trường, dáng vẻ đầy tự tin, giọng nói trầm ấm được phóng to qua mấy chiếc loa. Anh kể về cuộc đời cầm súng và cầm bút của mình, cũng như bao đồng đội khác. Những năm tháng ở rừng Khu 5 đói cơm, thiếu muối, phải phát rẫy tỉa ngô, trồng sắn để có lương thực. Đó là khi địch đánh phá cắt đứt con đường tiếp tế từ hậu phương lớn miền Bắc hay mùa mưa nước sông dâng cao, chảy xiết, không cách gì qua được. Mối liên hệ với đồng bằng bị bao vây, khống chế. Cả một vùng chiến trường rộng lớn không nơi nương tựa. Những trận đói kéo dài, rồi những cuộc chống càn, những lần đột ấp bắt mối cơ sở mua gom từng viên thuốc, cân muối. Không ít đồng đội đã nằm lại dọc đường. Sau mỗi lần như vậy, về căn cứ lại loay hoay giở sổ tay ghi chép. Cứ thế, những “đứa con tinh thần” được ra đời trong lúc bụng rỗng, hay giữa cơn sốt rét hai hàm răng va nhau lập cập, cũng có khi vừa thoát chết sau trận pháo kích hoặc B-52 rải thảm. Vừa cầm súng vừa cầm bút, vừa cầm bút vừa cầm cuốc, đó là những nét đặc thù hiếm gặp của các nhà văn, nhà báo trên chiến trường. Những tháng năm gian khổ ác liệt ấy, Thu Bồn viết nhiều, trong đó có trường ca “Bài ca chim Chơ-rao” (năm 1962) với phong cách phóng khoáng, vạm vỡ và quyết liệt, đã đưa ông tới thành công. Sau trường ca ấy, Thu Bồn liên tiếp cho ra đời các trường ca: “Bazan khát”, “Campuchia hy vọng” và trường ca viết dâng Bác Hồ “Trên vách đá Hồ Chí Minh”…

Những dòng chia sẻ, tâm sự của Thu Bồn đã thu hút sự chú ý của mọi người. Hàng trăm ánh mắt nhìn lên chờ đợi. Lần đầu tiên họ được nghe những câu chuyện có vẻ lạ lẫm và không kém phần hấp dẫn về người chiến sĩ, các văn nghệ sĩ, báo chí cách mạng. Đó có lẽ là bài học về lòng yêu nước đầu đời của những thanh niên vừa từ giã một chế độ không được lòng dân, mặc dù trước đấy họ đã có mặt trong các cuộc xuống đường, Phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”, “Tiếng hát những đêm không ngủ”… Sau phần nói chuyện, Thu Bồn chuyển sang đọc thơ. Anh đọc trường ca “Bài ca chim Chơ-rao”, “Trên vách đá Hồ Chí Minh”… và kết thúc bằng bài thơ “Gửi lòng con đến cùng Cha”. Thu Bồn chia sẻ: “Bài thơ này tôi viết khi nghe tin Bác Hồ mất. Đêm ấy tôi không sao ngủ được, hình ảnh người Cha già hiện về và cứ chập chờn trong tâm trí tôi. Cũng như tôi, bao người chiến sĩ khóc ròng. Suốt cả tuần, đơn vị lặng im như mặc niệm, không một tiếng cười, từ chỉ huy đến chiến sĩ, ai cũng buồn đau. Những con suối cũng như cất tiếng khóc, đất trời rơi nước mắt. Bài thơ “Gửi lòng con đến cùng Cha” tôi viết trong nỗi đau thương ấy. Nó là tiếng lòng của những người chiến sĩ đối với Bác, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam”. Dừng lại giây lát, nhà thơ bắt đầu đọc: “Có người thợ dựng thành đồng/ Đã yên nghỉ tại sông Hồng, mẹ ơi/ Con đi dưới một vòm trời/ Đau thương nhưng vẫn sáng ngời lòng tin/ Đã ngừng đập một quả tim/ Đã ngừng đập một cánh chim đại bàng”.

 Chất giọng trầm ấm, âm vang của Thu Bồn rung lên như tiếng đàn bầu. Cả khối người im phăng phắc. Không khí chợt lắng xuống. Vài chiếc lá rời cành âm thầm thả mình vào khoảng không yên lặng như muốn phụ họa cho những gì đang diễn ra. Tôi nghe được cả tiếng tim mình đập nhẹ. Thu Bồn tay cầm chiếc mũ, vẻ mặt xúc động, chậm rãi đọc tiếp: “Hành trang Bác chẳng có gì/ Một đôi dép mỏng đã lỳ chông gai…/ Tiếc rằng trước lúc chia ly/ Con chưa thấy được dáng đi của Người/ Hẳn trong đôi mắt sáng ngời/ Vẫn nguyên vẹn một khoảng trời phương Nam”… Thu Bồn chợt nghẹn ngào rồi nấc lên. Âm thanh ấy qua micro được phóng to trên loa làm mấy trăm con người cũng không kìm nén nổi. Xúc động vỡ òa, những tiếng sụt sịt khe khẽ vang lên khắp sân. Nhìn sang bên, tôi bắt gặp những gương mặt ướt đẫm nước mắt. Không ai muốn che giấu, các chàng trai, cô gái sinh viên cứ để cho lòng mình trôi theo niềm xúc động với nhà thơ. Không ngờ Thu Bồn lại kết thúc buổi nói chuyện và đọc thơ trong một tình huống như thế. Bằng sự chân thực mà sâu sắc, Thu Bồn, nhà thơ-chiến sĩ đã gieo vào lòng những người thanh niên ở một thành phố lớn miền Nam vừa được giải phóng tình cảm với cách mạng cũng như văn học kháng chiến.

Với những đóng góp trong sự nghiệp sáng tác văn học, năm 2001, nhà thơ Thu Bồn được tặng Giải thưởng Nhà nước, năm 2017 được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật. Cuộc đời sáng tác văn học của ông là một dòng chảy không ngơi nghỉ, nó chỉ kết thúc khi ông từ giã cõi đời, ngày 17-6-2003.

“Đêm ấy tôi không sao ngủ được, hình ảnh người Cha già hiện về và cứ chập chờn trong tâm trí tôi. Cũng như tôi, bao người chiến sĩ khóc ròng”.

LÊ VĂN VỌNG