Thâm Tâm (1917-1950) sống trên đời chỉ vẻn vẹn 33 năm nhưng ông đã để lại những dấu ấn mà người làm văn học sử, người yêu mến văn học báo chí Việt Nam không thể bỏ qua và dửng dưng. Mới đây, tôi cùng một số nhà văn, dịch giả đến nhà con trai nhà văn-anh Nguyễn Tuấn Khoa-thắp hương tưởng nhớ nhà thơ-liệt sĩ và được gia đình tặng sách quý “Truyện ngắn Thâm Tâm” xuất bản năm 2021 với 38 truyện ngắn đã được đăng rải rác trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy từ năm 1941 đến 1944. Con trai nhà thơ còn cho biết thêm, anh vừa ký hợp đồng xuất bản tập “Truyện vừa Thâm Tâm” với Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Điều đặc biệt ở tập “Truyện vừa Thâm Tâm” là đã tìm lại được trọn bộ truyện lịch sử “Dòng máu sông Hồng” bao gồm 4 truyện: “Người Giao Chỉ”, “Bố Cái”, “Chim làm tổ”, “Rồng” và các truyện: “Bọn trẻ tàn tật”, “Gánh hát sử Nam”, “Người giữ ngựa”, “Tiếng mùa xuân”... PGS, TS Lưu Khánh Thơ cũng mới cung cấp một bản tiểu thuyết “Nỗi ân hận dài” dưới tên thật là Tuấn Trình do Á Châu xuất bản từ trước năm 1945 và gia đình sẽ có kế hoạch giới thiệu tiểu thuyết này đến với đông đảo công chúng trong thời gian tới.
Trong nhiều năm nay, anh Khoa và vợ là chị Nguyễn Ngọc Mỹ-người rất yêu văn học, trong đó có những di sản văn học của cha mình (xin bật mí để bạn đọc biết thêm: Anh Nguyễn Tuấn Khoa là tác giả của truyện ngắn “Hoa thạch trúc báo bình yên” được trao giải trong một cuộc thi truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ Quân đội) đã cất công ra Bắc, vào Nam gặp gỡ bạn bè; trong đó có những nhà văn, nhà nghiên cứu như: Ngô Thảo, Vương Trí Nhàn, Lại Nguyên Ân, Triệu Xuân, Văn Giá, Lưu Khánh Thơ... để có những tư liệu về Thâm Tâm và đưa vào cuốn sách.
Nói về di sản văn xuôi của Thâm Tâm, nhà phê bình Văn Giá bày tỏ: “Bên cạnh mảng thơ, Thâm Tâm có mảng văn xuôi khá phong phú. Đối với truyện ngắn của Thâm Tâm, ông đã đóng góp vào dạng “truyện ngắn trữ tình” giống như các nhà văn Thạch Lam, Thanh Châu... vẫn thể hiện. Truyện ngắn của ông có cảm quan hiện thực, được kể với ngôn ngữ tinh tế, giàu chất thơ, giống các bài “văn xuôi thế sự”. Trong truyện ngắn của mình, Thâm Tâm quan tâm đến những con người có thân phận bé nhỏ trong cuộc đời, với một tấm lòng nhân ái, bao dung...”.
Thâm Tâm tên khai sinh là Nguyễn Tuấn Trình, sinh ngày 12-5-1917 trong một gia đình trung lưu (cụ thân sinh làm nghề dạy học, thân mẫu làm nghề đóng sổ sách và bán bánh kẹo) tại thị xã Hải Dương. Thuở nhỏ, ông học ở quê, sau theo gia đình lên Hà Nội vừa học vừa làm nghề vẽ tranh, viết báo. Cũng như nhiều thanh niên, học sinh Hà Nội lúc bấy giờ, trong cảnh nước mất nhà tan, anh thanh niên Nguyễn Tuấn Trình luôn khát khao yêu thương, khát khao một cuộc dấn thân, một cuộc lên đường.
Và kịp khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 bùng nổ, chàng trai-tác giả của “Tống biệt hành” đã làm một cuộc lên đường. Một cuộc lên đường không mấy dễ dàng, chóng vánh, với một tương lai cơ chừng rất mong manh; một cuộc lựa chọn không bàn hơn-thiệt, được-thua. Thâm Tâm tòng quân lên Chiến khu Việt Bắc. Ở đó, ông đã sống những năm tháng cực kỳ thiếu thốn, gian khổ và ác liệt nhưng cũng là những năm tháng đẹp đẽ nhất của đời ông... Cũng như những Trần Đăng, Thôi Hữu, Hoàng Lộc, Hồng Nguyên, Trần Mai Ninh, Nguyễn Đình Lạp và nhiều văn nghệ sĩ cùng thời khác, Thâm Tâm đã sống cùng bộ đội và viết vì bộ đội, vì kháng chiến. Chưa đầy 5 năm trong quân ngũ nên ông chưa kịp làm nhiều thơ về bộ đội, về cuộc chiến đấu anh hùng của dân tộc. Ông chỉ có bài “Chiều mưa Đường số 5” là bài khá nhất, viết trực diện về người lính, còn để lại đến hôm nay. Bài này được ông viết sau một chuyến công tác vào vùng địch hậu Khu III năm 1948. Tuy nhiên, Thâm Tâm cũng đã có những đóng góp rất đáng kể trong lĩnh vực văn nghệ, báo chí những năm kháng chiến chống thực dân Pháp.
    |
 |
Bìa cuốn "Truyện ngắn Thâm Tâm" mới xuất bản. |
Với tư cách là phóng viên mặt trận, sau đảm nhiệm cương vị Thư ký tòa soạn của Báo Vệ quốc quân (tiền thân của Báo Quân đội nhân dân), Thâm Tâm đã có mặt ở hầu hết các chiến dịch lớn, các trận đánh quan trọng ở Việt Bắc, Đông Bắc và đồng bằng Liên khu III. Với tư cách là thư ký tòa soạn của Báo Vệ quốc quân, Thâm Tâm luôn là một người làm báo mẫn cán và sáng tạo. Nhà báo Trần Cư kể: “Thâm Tâm là “nhà thơ tiền chiến” nhưng nổi tiếng là một người đã đi, đi biền biệt; đã ngồi, ngồi rất dai”. Nhà văn Nguyên Hồng có lần từ Hội Văn nghệ sang tòa soạn Báo Vệ quốc quân chơi, khi thấy Thâm Tâm ngồi bên chồng bản thảo đã phải thốt lên rằng: “Hình như cột sống của tác giả “Tống biệt hành” làm bằng sắt!”.
Thâm Tâm, trong con mắt của đồng chí, đồng bào Việt Bắc và bạn bè, đó là một anh vệ quốc quân có thân hình nhỏ bé, gầy guộc với 4 mùa mũ bê-rê tím than, quần áo bà ba đen quen thuộc khi ở tòa soạn. Còn lúc hành quân ra trận là quần xắn quá đầu gối, tay áo xắn quá khuỷu, một cây gậy tre, một con dao rừng lủng lẳng bên hông cùng chiếc túi dết vải Chăm.
Hình ảnh Thâm Tâm còn được người đương thời nhớ trong những buổi thuyết trình tại ban biên tập báo, tại các hội nghị. Nhớ nhất là tại Hội nghị văn nghệ bộ đội tháng 9-1949, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng trong một bài tường thuật in trên tờ Văn nghệ số ra ngày 11-12-1949 đã viết: “Ngày 12-9, câu chuyện rất dài của Thâm Tâm về văn thơ bộ đội đã vạch ra một sự thật: Loại thơ anh hùng của cán bộ, những hình ảnh tưởng tượng, lời văn mỹ miều của những văn nghệ sĩ công tác trong bộ đội không được đội viên hoan nghênh. Trái lại, họ thích những bài thơ hợp với đời sống của họ, những bài thơ ở bộ đội mà ra, vì bộ đội mà có, những sáng tác này trở lại ảnh hưởng bộ đội rất mạnh”. Nguyễn Huy Tưởng còn cho biết, tại hội nghị, Thâm Tâm là người đầu tiên phát hiện bằng văn bản Bác Hồ là một nhà thơ. Đó là những trang viết vừa có tính chất phát hiện, vừa thành kính, xúc động...
Rất tiếc là cống hiến của Thâm Tâm chỉ kịp có vậy. Thu-đông năm 1950, trên đường theo bộ đội đi chiến dịch, Thâm Tâm đã mắc trọng bệnh và đột ngột nằm lại vĩnh viễn dưới chân đèo Mã Phục, cách thị xã Cao Bằng chừng hai mươi cây số-nơi Báo Vệ quốc quân đặt trụ sở dã chiến. Di sản văn học và báo chí của nhà thơ-liệt sĩ Thâm Tâm do thời gian, chiến tranh, giặc giã còn bị khuất lấp, quên lãng khá nhiều. Hy vọng sắp tới sẽ dần được phát hiện và làm sáng tỏ!
Nhà văn NGÔ VĨNH BÌNH