QĐND - Một ngày cuối thu năm 2014, tôi tìm gặp Anh hùng LLVT nhân dân, Trung tướng Phan Thu, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ông là một trong những nhà kỹ thuật quân sự có đóng góp quan trọng trong cải tiến vũ khí khí tài bắn B-52 cách đây 42 năm. Ông bảo: “Rất tiếc, vừa qua các phương tiện thông tin đại chúng chưa nói đầy đủ đến hai việc hệ trọng đã góp phần làm nên chiến thắng là trinh sát nhiễu và cải tiến ra-đa K8-60. Trong câu chuyện với anh hôm nay, tôi chủ yếu nói rõ thêm về việc này”.

Buổi đầu của “Đội nhiễu”

"Gậy ông đập lưng ông”, đó là câu tục ngữ Việt Nam nhưng lại rất đúng với những diễn biến cuộc chiến của bộ đội ta chống chiến tranh điện tử của không lực Hoa Kỳ”-ông nói. Đó là việc đối phương sử dụng các phương tiện hiện đại nhằm gây nhiễu ra-đa pháo cao xạ và tên lửa phòng không, chúng ta đã khôn khéo tìm ra cách đối phó có hiệu quả nhất. Do sớm nhận thức được tình hình này, ngày 10-1-1967, Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân ký quyết định thành lập Đội nhiễu, do tôi làm đội trưởng. Phó tư lệnh Nguyễn Văn Tiên thay mặt Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho chúng tôi đã dặn dò: “Phải chuẩn bị cho nhiệm vụ lâu dài, địch có thể đánh trở lại miền Bắc, đặc biệt có thể sử dụng B-52 nên việc trinh sát nhiễu cần coi trọng nghiên cứu nhiễu B-52”. Dự báo của Bộ tư lệnh là rất chuẩn xác, để rồi 5 năm sau, ta giành phần thắng giòn giã trên bầu trời Hà Nội.

Trung tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Phan Thu.

Trong buổi đầu ra quân, Đội nhiễu bố trí trinh sát tại Hồ Nam, Vĩnh Linh, nhưng sau có lệnh rút về Cà Ròn. Việc hiểu nhầm địa điểm lại thành điều… may. Chả là Tư lệnh Quân chủng điều Đội nhiễu đến một nơi thuộc Quảng Bình trong lệnh ghi “Cà Ròn”, tìm mãi trên bản đồ không thấy địa danh này, anh em nghĩ “Ròn” là mũi Ròn, cũng thuộc Quảng Bình. Khi mở máy trinh sát ở vị trí mới, thì bất ngờ bắt được tín hiệu định hướng rõ hơn so với vị trí cũ, phân biệt được nhiễu từ hạm tàu hay từ máy bay. Điều rủi đã thành may mắn chính vì trận địa bố trí xa nơi phát sóng nên đã phân biệt chính xác hướng xuất phát của tín hiệu. Đội đã nhận thấy cái gì đó mang tính quy luật giữa thời gian xuất hiện nhiễu, thời điểm nhiễu mạnh rộ lên với những đợt B-52 ném bom đường Trường Sơn.

Máy phát nhiễu hiện đại lắp dưới cánh máy bay Mỹ.

Rồi đến cuối năm 1968, Đội nhiễu hành quân đến đúng nơi có tên “Cà Ròn”, lần này lệnh ghi rõ: “Cà Ròn, vọng quan sát mắt 25, bố trí ở Km 54 đường 20”. Nơi đây rất gần trọng điểm nổi tiếng ác liệt trên đường Trường Sơn là A.T.P, máy bay B-52 thường xuyên ném bom. Qua nhiều ngày ghi chép đầy đủ từng chi tiết về thời gian xuất hiện các loại nhiễu khác nhau, thời điểm công suất nhiễu tăng vượt trội, Đội đã tìm ra quy luật B-52 vào đánh thông qua các triệu chứng gây nhiễu của chúng. Thời gian biết trước có thể sớm từ 10-15 phút. Từ đó, việc báo động B-52 được truyền trên tuyến đường vận tải quân sự 559 thông qua việc bắn súng báo hiệu đến các trọng điểm.

Việc nghiên cứu nhiễu của địch ngay từ đầu đã phát huy hiệu quả thiết thực, đến đầu năm 1970, cấp trên đã quyết định mở rộng quy mô nghiên cứu, thành lập Tiểu đoàn nhiễu với 3 đại đội trinh sát. Đồng chí Phan Thu được bổ nhiệm Phó phòng Quân báo kiêm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Huỳnh Năm là Chính trị viên, Tiểu đoàn phó là các đồng chí: Nguyễn Xuân Đại, Đặng Đình Vinh. Thời kỳ này, các đại đội trinh sát nhiễu còn có sự phối thuộc chặt chẽ với các trung đoàn ra-đa để góp phần tăng khả năng phát hiện máy bay địch cho mạng tình báo ra-đa. Trong Chiến dịch Quảng Trị tháng 8-1972, Đại đội 3 trinh sát nhiễu đã thông báo kịp thời và chính xác thời điểm B-52 vào ném bom, đã được tặng thưởng tại chỗ Huân chương Chiến công hạng ba. Cuối năm 1972, khi Mỹ đưa B-52 ném bom Hà Nội, cũng chính đại đội này do Nguyễn Ngọc Lương là đại đội trưởng, đã thông báo trước 2 ngày triệu chứng địch có thể đánh lớn miền Bắc và 2 giờ trước khi có trận mở màn của B-52 ngày 18-12-1972.

"Anh chàng cổ lỗ sĩ” vào cuộc

Trung tướng Phan Thu cho tôi xem một số tài liệu ghi chép từng trận đánh của ông từ hơn 40 năm trước, giấy đã ố vàng, cùng một số cuốn hồi ký, cuốn sử có liên quan. Ở trang 304, hồi ký Bảo vệ bầu trời (NXB Quân đội nhân dân, 1982) của Thiếu tướng Nguyễn Xuân Mậu, nguyên Phó chính ủy Quân chủng Phòng không-Không quân, có đoạn: “Rõ ràng, dù phương tiện chiến tranh có phát triển hiện đại đến đâu, đôi khi một biện pháp thô sơ cũng góp phần làm nên chiến thắng. Xuất phát từ suy nghĩ như thế, đồng chí Phan Thu đã mạnh dạn đề xuất với Bộ tư lệnh quân chủng cho sử dụng loại ra-đa thuộc thế hệ sắp đưa vào bảo tàng, dùng để bắt B-52… Trong khi nghiên cứu chế tạo máy gây nhiễu, những nhà khoa học Mỹ đã không đếm xỉa gì đến “anh chàng cổ lỗ sĩ” ấy”. Ông Phan Thu giải thích:

Một số cán bộ chủ chốt nghiên cứu nhiễu đầu tiên. Tiểu đoàn trưởng Phan Thu ngoài cùng bên phải (năm 1968). Ảnh do nhân vật cung cấp.

- "Anh chàng cổ lỗ sĩ” mà Phó chính ủy Nguyễn Xuân Mậu nói đến chính là loại ra-đa K8-60 trang bị cho pháo phòng không 57mm, có tần số làm việc ở dải sóng 3cm. Qua trinh sát nhiễu những năm 1968-1970 trên đường Trường Sơn, chúng tôi phát hiện B-52 không gây nhiễu đối với ra-đa phòng không mặt đất ở dải sóng này. Đây chính là chỗ “hở sườn” của địch. Chúng tôi đề xuất một đề tài cải tiến kỹ thuật giúp ra-đa tên lửa SAM2 chống nhiễu B-52, bằng cách lắp ghép phần tử mục tiêu từ ra-đa K8-60 vào cho đài điều khiển tên lửa SAM2 để hỗ trợ tên lửa SAM2 bắt B-52. Đầu năm 1972, cải tiến này được áp dụng lần đầu ở Tiểu đoàn 89 (Trung đoàn 274) được bố trí ở Quảng Bình. Kết quả rất tốt, trong gần 2 tháng làm việc, ra-đa K8-60 đã bắt được mục tiêu 18 lần, trong đó có 2 lần bắt được B-52 ở cự ly 45km, không hề bị nhiễu và bị tên lửa chống ra-đa của địch bắn vào. Trên cơ sở thử nghiệm trên, từ giữa năm 1972, Tư lệnh Quân chủng đã có lệnh cho triển khai cải tiến ở khu vực Hà Nội để chuẩn bị đối phó với B-52. Việc đưa loại ra-đa cũ của pháo phòng không vào cuộc, đã góp phần đắc lực cho SAM2 bắt B-52 và đánh B-52. Cụ thể, trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 không quân Mỹ đánh vào Hà Nội, quân dân ta đã bắn hạ 34 chiếc B-52 và 47 máy bay các loại khác, trong nhiều biện pháp và cải tiến tên lửa để làm nên một “Điện Biên Phủ trên không” chấn động địa cầu, có sự góp phần của “anh chàng cổ lỗ sĩ” ấy.

Đầu năm 1973, sau trận thua đau trên bầu trời Hà Nội, Mỹ phải ký Hiệp định Pa-ri, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Một lần, ông Phan Thu có dịp đi cùng cán bộ của Cục 2 (nay là Tổng cục 2) vào “Hin-tơn Hà Nội” (nhà tù Hỏa Lò) hỏi cung giặc lái Mỹ. Viên trung tá, sĩ quan điện tử trong tốp lái B-52 tên là Uy-li-am Côn-li, khi được hỏi có phát hiện thấy ra-đa mặt đất làm việc ở dải sóng 3cm không? Hắn trả lời: “Có thấy. Nhưng tôi không quan tâm, vì đó là sóng của ra-đa pháo cao xạ, không bắn tới được độ cao của B-52 …”. Rõ ràng ngày đó địch không thể ngờ, “anh chàng cổ lỗ sĩ” nhờ tài trí Việt Nam lại phát huy tối đa hiệu quả đến thế!
PHẠM QUANG ĐẨU