QĐND - Từ khi đảo chính Pháp (tháng 3-1945) tới khi đầu hàng Đồng minh, người Nhật đã có những nỗ lực để xây dựng một chính giới thân Nhật ở Việt Nam. Tuy nhiên trước khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, đã có sự phân hóa sâu sắc trong hàng ngũ này. Ở kinh đô Huế, những trí thức lãnh đạo Trường Thanh niên Tiền tuyến đã đồng lòng cho Việt Minh thâm nhập vào đội ngũ, dẫn tới sự kiện nhóm này treo cờ Việt Minh tại Ngọ Môn, xóa sổ nền quân chủ. Ở Nam Bộ, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, một đảng viên Đảng Cộng sản đã tương kế tựu kế, dẫn dắt Thanh niên Tiền phong mưu trí giành chính quyền tại Sài Gòn…
Chúng tôi xin trích dịch một số tư liệu từ sách “Lịch sử Việt Nam” của tác giả người Pháp Phi-líp Đơ-vi-le (Philippe Devillers), có tham khảo, trích dẫn một số nguồn khác của các nhà sử học phương Tây về những ngày tháng đáng nhớ đó.
Những con bài
Theo sách “Lịch sử Việt Nam” xuất bản lần đầu năm 1952, ngày 11-3, hai ngày sau khi đảo chính Pháp, Nhật buộc Vua Bảo Đại ra chiếu bãi bỏ Hiệp ước bảo hộ 1884, tuyên bố “An Nam độc lập”. Việc này làm những người Việt giận dữ, vì từ “Việt Nam” không được dùng trong chiếu chỉ này.
Việc chia cắt Việt Nam phản ánh lợi ích khu vực của Nhật. Tô-ki-ô muốn dùng miền Nam Việt Nam như một “khu du kích”, nhằm “trói chân” lực lượng xâm nhập của Đồng minh, ngăn chặn khả năng cơ động tác chiến của Đồng minh về hướng các căn cứ của Nhật tại Trung Quốc, hoặc nhằm vào các hòn đảo bản xứ của nước Nhật. Tác giả người Mỹ Uy-li-am En-xbri (William Elsbree), trong “Vai trò Nhật Bản trong các phong trào dân tộc chủ nghĩa Đông Nam Á (1940-1945)” viết: “Khi gạt Pháp lên nắm quyền từ ngày 9-3-1945, Nhật đã để tâm ngăn ngừa những hỗn loạn về kinh tế, hành chính, những rắc rối về an ninh, quân sự, do họ nghĩ rằng một cuộc đổ bộ vào Việt Nam của quân Đồng minh có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Vì thế họ vẫn sẵn lòng duy trì người Pháp ở những khâu thấp nhất của bộ máy hành chính Đông Dương”. Nhưng, chỉ một tháng sau, những người Pháp đã biến mất khỏi sân khấu chính trị, khiến người Nhật phải nhanh chóng tạo ra bộ máy hành chính gồm những người Việt.
 |
Tổ chức Thanh niên Tiền phong ra đời ngày 1-6-1945 ở Nam Bộ có vai trò tích cực trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945. Ảnh tư liệu |
Ban đầu Nhật vẫn muốn dùng Ngô Đình Diệm, dù Diệm từng mặc cả róng riết với Nhật về các vấn đề chính trị. Tuy nhiên, Diệm bất bình với Bảo Đại từ năm 1933, nên từ chối đứng ra lập chính phủ dưới trướng ông vua này. Hẳn Diệm nhận thấy cộng tác với thế lực đang lụi tàn sẽ bất lợi. Ngày 17-4-1945, Nhật dàn xếp để Trần Trọng Kim lập chính phủ. Học giả Pháp Pi-e Đa-bê-dít (Pierre Dabezies) trong sách “Các lực lượng chính trị ở Việt Nam” xuất bản lần đầu năm 1955 cho hay, các đảng viên Đảng Đại Việt đã tham gia nội các và ủng hộ chính quyền Trần Trọng Kim. Đảng Đại Việt thành lập năm 1940 trong giới sinh viên Hà Nội, kỳ vọng sự chiếm đóng của Nhật sẽ giúp Việt Nam thoát ách đô hộ của Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim gồm những nhân vật “chính khách thượng lưu”. Trước tháng 3-1945, họ không quyết liệt xây dựng một tổ chức chính trị lôi cuốn nhiều người tham gia, mà chỉ tập trung tranh đấu cho cơ hội tu nghiệp, cho chức tước-cái được biết đến trong giới thượng lưu thuộc địa như thứ “uy tín” mơ hồ. Đặc tính này, dù không trùm lên mọi thành viên nội các, vẫn là cốt lõi trong khâu ra quyết định của chính quyền Trần Trọng Kim. Các quyết nghị của Chính phủ Trần Trọng Kim hầu hết mang tính quan liêu, hành chính cứng nhắc, ngoại trừ tuyên bố tái xác lập tên gọi lịch sử của đất nước là “Việt Nam” vào đầu tháng 7-1945.
Người Nhật cho rằng miền rừng núi Nam Bộ nhiều đầm lầy, gần biên giới với Cam-pu-chia sẽ là trọng tâm cho “chiến tranh du kích” trong địch hậu, cản quân Đồng minh đổ bộ. Nhật chuyển đổi phong trào “Thanh niên Thể dục thể thao” vốn do Pháp đỡ đầu thành “Thanh niên Tiền phong”-một lực lượng bán vũ trang, với ý đồ làm hạt nhân của một đội quân bản xứ ở Nam Kỳ. Đài Tô-ki-ô ngày 29-6-1945 thông báo sự ra đời tại Đông Dương của Thanh niên Tiền phong.
Luật sư Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên của Chính phủ Trần Trọng Kim và người trợ lý giỏi giang là Tạ Quang Bửu chịu trách nhiệm định hướng thanh niên về chính trị và quân sự, với sự tài trợ của Nhật.
Hệ quả
Nhật hy vọng tạo được trào lưu chính trị gồm cả các giáo phái thu hút được dân chúng ở nông thôn lẫn các đảng phái chính trị có chân trong giới cư dân thành thị. Vì các giáo phái và đảng phái này tiếp tục theo đuổi tư tưởng bảo hoàng và các định hướng giá trị phương Đông dưới vỏ cách tân, nên chính quyền chiếm đóng của Nhật được tạo những phương tiện tốt nhất để kiểm soát dân chúng. Tuy nhiên, đã có khác biệt lớn giữa nhận thức tự quản không đi quá giáo xứ ở nông thôn với các đảng phái phôi thai, đa tạp ở thành thị, khiến liên minh giữa các lực lượng này dưới danh nghĩa Phục quốc Đồng minh hội không đạt được. Vì thế, các nỗ lực của người Nhật trong tạo dựng cơ cấu chính trị thân Nhật là gần như vô vọng. Với việc Ngô Đình Diệm vốn thân cận với Cường Để (lãnh tụ Việt Nam Phục quốc) không chịu hợp tác với Nhật, ý đồ đưa Cường Để trở lại sân khấu chính trị ở Nam Bộ bất thành.
Không thể tạo được một liên minh chính trị có hiệu quả ở miền Nam Việt Nam, người Nhật triển khai chính sách quân sự hóa một số phe nhóm nhằm chống cuộc đổ bộ của Đồng minh. Điều này không chỉ làm rộng thêm miệng hố ngăn cách các phe phái về chính trị, mà còn gây khó cho xác lập thể chế lãnh đạo từ trung ương, cũng như cố kết chính trị quốc nội. Kết quả là các đơn vị bán vũ trang thuộc Thanh niên Tiền phong trở thành quân trù bị của Việt Minh, đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Nam Bộ.
Một hậu quả ngoài ý muốn nữa xảy ra với “chiến lược thanh niên” đầu tiên của Pháp, sau là của Nhật, đó là Phan Anh và Tạ Quang Bửu đã dẫn dắt Trường Thanh niên Tiền tuyến ở Huế theo Việt Minh tại bình minh của Cách mạng Tháng Tám. Chính phủ Đại Việt của Trần Trọng Kim kỳ vọng xây dựng lực lượng kế cận, củng cố chân đứng trong dân bằng các tổ chức sinh viên, trên thực tế lại bị đánh đổ bởi chính lực lượng này. Ngày 21-8-1945, hội nghị của Tổng hội Sinh viên đã đòi Bảo Đại phải thoái vị để thành lập Chính phủ thống nhất dân tộc mà nòng cốt là Mặt trận Việt Minh.
Ở Hà Nội, Giáo sư Hoàng Minh Giám, Trưởng nhóm liên lạc Nhật-Việt ở miền Bắc, trở thành cộng sự gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ những ngày đầu của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Chỉ xoay xở đối phó với Đồng minh, người Nhật không có ý đồ xây dựng những thể chế chính trị thống nhất để bảo đảm một nhà nước ổn định. Nỗ lực tăng cường chủ nghĩa địa phương, chia rẽ vùng miền, chia tách dân cư thành những “giáo khu” của Nhật lại làm lợi trực tiếp cho Pháp. Khi quay lại xâm chiếm miền Nam sau Cách mạng Tháng Tám, Pháp đã tìm cách tách một số giáo phái khỏi khối đoàn kết dân tộc của Việt Minh. Nhưng thất bại chung của Pháp và Nhật là không tập hợp được các lực lượng ở thành thị với nông thôn thành một khối. Đồng thời, các tổ chức chính trị thân nước ngoài, vốn cục bộ và hẹp hòi do hình thành trên cơ sở chủ nghĩa địa phương, tư tưởng cát cứ, không thể có được cả năng lực thỏa hiệp và mặc cả để duy trì sự thống nhất của các liên minh chính trị lẫn năng lực tổ chức thành một khối đồng nhất cùng một ý chí như lực lượng do những người cộng sản lãnh đạo.
LÊ ĐỖ HUY (dịch)