QĐND - Bà con ở xã An Tịnh, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh hay nói như vậy mỗi khi nhắc đến gia đình Trung tướng Nguyễn Thới Bưng (tên gọi thân mật là Út Thới) khi ông còn sống. Ở vùng quê giàu truyền thống cách mạng này, ai cũng coi gia đình cố Trung tướng Nguyễn Thới Bưng là mẫu mực, không chỉ vì danh tiếng, sự đóng góp lớn lao cho cách mạng, mà đó còn là thái độ tri ân, một cách bày tỏ tình cảm đậm chất Nam Bộ…

Trung tướng Nguyễn Thới Bưng với cán bộ, phóng viên Báo Quân khu 7. Ảnh: Xuân Giang.

Bây giờ thì chú Út Thới đã an tịnh ở một nơi nào đó trong cõi cao xanh. Mới đó mà cũng đã sắp đến ngày giỗ đầu của ông. Thường, khi có ai đó giã từ cuộc sống, người ta hay nói đó là sự trở về với cát bụi. Nhưng với những con người đã trở thành bất tử trong lòng dân, ai cũng tin, khi trái tim ngừng đập là lúc linh hồn về trời...

Tôi nhớ mãi những hình ảnh xúc động trong đám tang chú Út Thới những ngày giáp Tết Giáp Ngọ. Hôm làm lễ viếng, trong dòng người đông đúc, tôi gặp dì Sáu Thơ, từ huyện Trảng Bàng, Tây Ninh về TP Hồ Chí Minh viếng chú Út. Dì Sáu năm nay 75 tuổi, từng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cứu nước với vai trò làm giao liên và nữ du kích. Dì bảo, những năm gần đây do sức khỏe yếu, chú Út ít về Tây Ninh hơn, nhưng mỗi lần về, bao giờ chú cũng dành thời gian đến nghĩa trang viếng hương hồn đồng đội, thăm gia đình những người có công và dân nghèo. Chú Út sống tình nghĩa và là người mau nước mắt mỗi khi nhắc đến sự hi sinh xương máu của đồng bào, chiến sĩ. Khi nghe tin chú Út từ trần, dù biết sẽ an táng chú tại quê nhà, nhưng nhiều bà con từ Trảng Bàng đã đi xe xuyên đêm về TP Hồ Chí Minh viếng chú, rồi lại theo xe đưa chú về an nghỉ tại nơi chú đã chôn nhau cắt rốn…

Tôi có may mắn được nhiều lần tiếp xúc, gần gũi với ông khi ông còn sống, nhất là những năm tháng cuối đời. Khi đôi bàn tay ông đã run run, giọng nói của ông đã không còn sang sảng như trước, nhiều người trong đội ngũ đồng đội kế cận của ông và những người làm báo, làm văn gần gũi ông ở TP Hồ Chí Minh mới giật mình chạy đua với thời gian để làm một cái gì đó thật sự trọn vẹn về ông, dành cho ông. Một vị tướng trưởng thành từ kháng chiến, đi suốt cuộc trường chinh của dân tộc từ thời Tiền khởi nghĩa qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc cho đến công cuộc xây dựng, củng cố quân đội trong thời bình, được coi là pho tư liệu sống về lịch sử, quân sự và văn hóa vùng đất Nam Bộ, là tác giả, chuyên gia tư vấn của hàng chục công trình đồ sộ về sử lược, khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam, nhưng đến cuối đời, ông vẫn chưa có cho riêng mình một công trình về thân thế, cuộc đời, sự nghiệp. Ông là thế, cuộc đời có thể gói gọn trong hai chữ: “cống hiến”. Trong tất cả những lần hội thảo hay trả lời phỏng vấn báo chí, truyền hình…, ông đều nói về nhiệm vụ, về cái chung, về những hi sinh xương máu của đồng bào, chiến sĩ. Những khi nhắc đến bản thân, ông chỉ nói ở khía cạnh mình là người trong cuộc, là nhân chứng lịch sử tham gia vào các sự kiện, trận đánh… Tuyệt nhiên không bao giờ ông tự đề cao vai trò cá nhân, đánh bóng, tô hồng bản thân. Đức hi sinh, lòng liêm khiết và khiêm tốn, giản dị ấy ông học từ Bác Hồ và những đồng đội đã ngã xuống. Ông thường nói, mình sống được đến hôm nay cũng chính là nhờ có niềm tin mãnh liệt vào Đảng, nhờ những đồng đội đã nằm xuống thay mình. Thế nên còn sống ngày nào là phải sống cả phần cuộc sống của đồng đội, không làm điều gì tổn hại đến sự hi sinh xương máu và vong linh của đồng đội. Chú Út Thới đã sống trọn cuộc đời cho Đảng cho dân, khi về thế giới bên kia, ông cũng chọn cho mình sự ra đi và nơi an nghỉ bình dị nhất! Lòng dân chính là thước đo nhân cách và sự cống hiến của cán bộ, đảng viên. Nhìn vào dòng người từ các vùng quê Nam Bộ đến tiễn đưa ông trong những ngày tang lễ và nơi ông an nghỉ tại quê nhà hằng ngày vẫn rực màu vạn thọ và bông huệ trắng của đồng bào, chiến sĩ đến viếng, đủ để thấy hình ảnh của một vị tướng trong lòng dân bình dị mà cao quý đến mức nào!

Đại tá PGS, TS Hồ Sơn Đài, Trưởng phòng Khoa học Quân sự Quân khu 7, người được Bộ tư lệnh Quân khu 7 giao nhiệm vụ chấp bút viết hồi ký cho Trung tướng Nguyễn Thới Bưng kể: “Từ tháng 9-2013, cứ mỗi sáng thứ ba, tư, năm hằng tuần, xe của Văn phòng Bộ Tư lệnh Quân khu đưa ông vào cơ quan tôi. Ông ngồi kể, còn chúng tôi tranh thủ chen ngang hỏi dặm, vừa chép tay vừa ghi âm. Tôi thuyết phục ông viết đầy đủ trong cuốn hồi ký của mình từ đầu cho đến khi ông thực sự hưu trí. Tức là từ những câu chuyện thuở ấu thơ ở làng quê An Tịnh, tỉnh Tây Ninh, hội thề Rừng Rong, rồi gia nhập bộ đội địa phương huyện Hóc Môn, tỉnh Gia Định, làm Trưởng ban Tác huấn của tỉnh Gia Định Ninh trong kháng chiến chống Pháp; tập kết ra Bắc, công tác tại Sư đoàn 330; học ở Học viện Nam Kinh, Trung Quốc; Trưởng ban Tác huấn Sư đoàn 338, rồi trở về Nam chiến đấu, lần lượt chỉ huy trung đoàn, Sư đoàn 5, Sư đoàn 9 chủ lực Miền, rồi Trưởng phòng Tác chiến Quân Giải phóng miền Nam, Trưởng phòng Tác chiến Chiến dịch Hồ Chí Minh trong kháng chiến chống Mỹ; Phó tư lệnh lực lượng vũ trang Thành phố Hồ Chí Minh, Tư lệnh Quân khu 9, Tư lệnh Quân khu 7, Phó tổng Tham mưu trưởng, đến Thứ trưởng Bộ Quốc phòng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trung tướng Nguyễn Thới Bưng (bên phải) và con trai – Trung tướng Nguyễn Châu Thanh. Ảnh do gia đình cung cấp.

Ông không còn nhớ nhiều, nhưng những gì ông còn nhớ được thì kể chi tiết, rất hăng say. Ông không kể chuyện đời tư, chuyện gia đình, dù bị hỏi vặn vẹo nhiều lần, chỉ kể chuyện chiến đấu, làm như cuộc đời của ông chỉ có chuyện chiến đấu. Thậm chí, ông chỉ muốn giới hạn phạm vi cuốn hồi ký đến hết năm 1972, khi ông không còn trực tiếp chỉ huy chiến đấu nữa, dù rằng sau đó ông còn chịu trách nhiệm về hoạt động chiến đấu của bộ đội ở cương vị cao hơn.

Với ông, điều đáng kể nhất của một quân nhân là trực tiếp cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận. Ở đó, phẩm chất người lính, bản lĩnh, trí tuệ, sự gan dạ và tinh thần đồng đội được thể hiện một cách trực diện, rõ ràng nhất. Ở đó, anh chính là anh, không thể khác. Thước đo trung thực nhất đối với một quân nhân là ở chiến trường. Có thể vì thế mà lâu nay trong những bài viết, lời kể, tham luận khoa học lịch sử, Trung tướng Nguyễn Thới Bưng thường chỉ đề cập đến đề tài liên quan đến các cuộc chiến đấu mà ông là chứng nhân trực tiếp. Chiều tôi, ông mới nói đôi nét về quãng thời gian giữ trách nhiệm ở Phòng Tác chiến Miền…”.

Tương tự, nhà báo Đinh Phong cùng ê kíp làm phim của Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh, thực hiện cuốn phim tài liệu về Trung tướng Nguyễn Thới Bưng cũng tâm sự: Quá trình quay phim, phỏng vấn, ông luôn nhắc những người làm phim tránh tuyệt đối sự cường điệu, tô hồng, đề cao vai trò cá nhân. “Lịch sử là phải trung thực tuyệt đối. Nếu vì lý do nào đó mà làm sai lệch, dù chỉ là một chi tiết, cũng là có tội với vong linh người đã khuất”-Ông nói.

Còn nhớ mấy năm trước, trong cuộc hội thảo khoa học về Chiến thắng Xuân Lộc trong Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975, chúng tôi đã hỏi ông về vai trò của vũ khí, trang bị kỹ thuật trong chiến dịch. Lúc bấy giờ ông là Trưởng phòng Tác chiến chiến dịch. Ông nói, hầu như trong mọi cuộc đối đầu, chúng ta chưa bao giờ mạnh hơn kẻ địch về vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật quân sự. Điều quan trọng là nhân tố con người, làm thế nào để vũ khí trang bị phát huy tối đa sức mạnh, đó là yếu tố chính của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Ông bày tỏ sự ủng hộ và đánh giá cao Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông” của ngành kỹ thuật trong toàn quân hiện nay.

Trong các người con của chú Út Thới, Nguyễn Châu Thanh (nay là Trung tướng, Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ Thuật) là người chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất từ ba mình. Ngày ông tập kết ra Bắc, Nguyễn Châu Thanh cùng chị ruột là Nguyễn Thị Mai Thanh ở lại miền Nam với má. Về sau ông được đi B, trở vào miền Nam chiến đấu. Nguyễn Châu Thanh theo ba vào chiến khu. Chính những năm tháng gian khó được gần gũi ba đã hình thành nên phẩm chất người lính Cụ Hồ trong Nguyễn Châu Thanh, nối gót ba theo đường binh nghiệp, phấn đấu trở thành vị tướng đứng đầu ngành kỹ thuật quân đội hiện nay.

Nhà có hai vị tướng, nhưng rất hiếm khi chú Út Thới nhắc đến điều đó. Với ông, danh tiếng không phải là thứ để đem ra khoe, mà điều quan trọng là mình làm được gì để xứng đáng với cái danh ấy, bởi suy cho cùng, đó là vinh dự, trách nhiệm mà Đảng, quân đội và nhân dân đặt lên vai mình. Tôi cũng đã nhiều lần được đi cùng Trung tướng Nguyễn Châu Thanh trong các đợt ông đi kiểm tra các đơn vị trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật (TCKT) ở phía Nam. Tiếp xúc với ông, càng thấy ông ảnh hưởng sâu sắc tư chất đạo đức, tác phong công tác và đời sống tình cảm từ bậc sinh thành. Trong công việc, Trung tướng Nguyễn Châu Thanh rất sâu sát, kiên quyết, lúc nào cũng đặt quyền lợi của tập thể, đơn vị lên trên hết, nhưng đời thường, ông là người giản dị, kiệm lời, dễ gần và luôn hòa đồng.

Giống như chú Út Thới, Trung tướng Nguyễn Châu Thanh đặc biệt chú trọng đến nhân tố con người trong phát huy sức mạnh của vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật. Ông là “cha đẻ” của nhiều chương trình, cuộc vận động lớn của TCKT hướng đến xây dựng ngành kỹ thuật quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Với ông, sự ủng hộ, đồng lòng, giúp đỡ của nhân dân là thế trận vững chắc nhất của các đơn vị kỹ thuật. Quản lý hệ thống kho, xưởng, nhà máy, trạm… với khối lượng vũ khí trang bị, phương tiện kỹ thuật rất lớn, Trung tướng Nguyễn Châu Thanh và lãnh đạo TCKT luôn chỉ đạo thực hiện công tác dân vận bằng nhiều hình thức, biện pháp phong phú, sinh động, thiết thực. Nhờ đó, tất cả các đơn vị đều nhận được sự ủng hộ to lớn của cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương.

Trung tướng Nguyễn Thới Bưng và Trung tướng Nguyễn Châu Thanh – hai cha con, hai vị tướng ở hai giai đoạn cách mạng của lịch sử dân tộc nhưng cùng chung một lý tưởng, ý chí và phẩm chất sáng ngời – danh hiệu cao quý: Bộ đội Cụ Hồ.

PHAN TÙNG SƠN