QĐND-Tháng 5-2010, Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân, nguyên Thứ trưởng Bộ Thủy sản được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Đây là phần thưởng cao quý thể hiện sự tri ân đối với một người chỉ huy tài trí, mưu lược. Với cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát không chỉ là người chỉ huy quyết đánh và biết đánh thắng kẻ thù, mà còn là một vị tướng nhân hậu, biết lắng nghe và gần gũi cấp dưới.

Nhân chuyến công tác vào Thành phố Hồ Chí Minh, tôi ghé thăm Chuẩn đô đốc, nhà giáo nhân dân Lê Kế Lâm, nguyên Giám đốc Học viện Hải quân. Ông tiếp tôi với tư cách một người ông, người thầy tiếp một học trò nhỏ. Những câu chuyện về một thời trận mạc, một thời “bục giảng dưới hầm sâu” được ông kể say sưa, rành rọt. Trong câu chuyện, bất chợt tôi nhắc đến Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân đã khiến ông xúc động.

Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát.

Nhấp một ly trà nóng, ông nói: “Anh Phát là một người tài trí, đức độ. Những ngày đầu mới về Hải quân, anh Phát thường trăn trở, luôn tìm cách để xây dựng Cục Hải quân phát triển thành Quân chủng Hải quân có sức chiến đấu cao. Rất ít thời gian anh ngồi ở bàn làm việc, trừ những lúc phải họp Đảng ủy, họp chỉ huy và cơ quan Cục, còn lại dành toàn bộ thời gian xuống đơn vị, cơ sở, đi xem xét địa hình, khảo sát đảo, vịnh, cửa sông, luồng lạch… Nhiều người đi theo đều rất sợ năng lực đi bộ, leo núi, lội nước của anh. Nhất là những lúc đi ca nô để chuyển tải sang tàu chiến”.

Có một câu chuyện về Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát mà Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm rất cảm kích. Đó là vào đầu tháng 12-1967, Lê Kế Lâm được giao nhiệm vụ cùng một số đồng chí dẫn đoàn ô tô 10 chiếc thuộc C5 vận tải, Cục Hậu cần Hải quân đưa các loại vũ khí vào Quảng Trị chuẩn bị cho chiến dịch. Hôm đó, đích thân Tư lệnh tổ chức bữa cơm thân mật tại một hang hầm ở cây số 11, ngã ba Biểu Nghi-Yên Lập (Quảng Ninh) để tiễn đoàn lên đường. Trong bữa ăn, Tư lệnh Phát đã ân cần dặn dò: “Các đồng chí đưa vũ khí vào chiến trường cho Đoàn 126 Hải quân đánh Mỹ-ngụy. Đi đường nguy hiểm, trên xe nhiều chất nổ, dọc đường lại lắm nơi thả bom từ trường, thủy lôi, bom tọa độ. Các đồng chí hết sức cẩn trọng, đi trên đường sẽ có các binh trạm giúp đỡ. Mùa này trời nhiều mây, có thể tranh thủ cả ban ngày mà đi. Vào trong đó, anh em cố gắng bảo đảm kỹ thuật tốt cho đặc công đánh giặc. Tôi luôn theo dõi thắng lợi của các đồng chí. Nhớ chuyển lời hỏi thăm và động viên của Tư lệnh đến anh em trong đó”.

- Ngồi trong hầm ở Vĩnh Linh, nghe Đài Tiếng nói Việt Nam tôi mới biết có cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân trên toàn miền Nam - Chuẩn đô đốc Lê Kế Lâm kể - Nghĩ đến Tư lệnh Nguyễn Bá Phát trong buổi tiễn chúng tôi lên đường, tôi thấy đồng chí thật chu đáo và tình cảm. Đồng chí chăm lo từng chi tiết cụ thể cho đến cái toàn thể. Không thể nắm hết mọi ngóc ngách của kỹ thuật Hải quân đa ngành, phức tạp, Tư lệnh đã biết dựa vào cán bộ cấp dưới, động viên họ hăng say quên mình vì sự nghiệp của Quân chủng. Không khoa trương, không văn vẻ cũng không quá khắt khe với cán bộ thuộc quyền, đồng chí ít nói nhưng nội tâm thật trong sáng và vị tha.

Với Phó đô đốc Mai Xuân Vĩnh, nguyên Tư lệnh Hải quân, Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát vừa là người anh, người đồng chí thân thiết. Ông từng nhận xét: Nguyễn Bá Phát là một Tư lệnh Hải quân nhiệt tình, trách nhiệm, say mê, sáng tạo trong công việc, bình tĩnh, tự tin, quyết đoán trước mọi khó khăn, sâu sát cán bộ, chiến sĩ, sống giản dị.

Năm 1968, trong một chuyến công tác cùng Tư lệnh Nguyễn Bá Phát vào Quảng Trị để kiểm tra, chỉ đạo Đoàn 126 đánh giặc, Phó đô đốc Mai Xuân Vĩnh mới thấy hết được “tính sát thực tiễn” của vị tướng tài trí, kiên trung.

Tư lệnh Nguyễn Bá Phát (giữa) họp ban chỉ đạo chống phong tỏa thủy lôi và bom từ trường tại các vùng sông biển của Mỹ năm 1972.  Ảnh chụp lại.

“… Khi đoàn đến Hà Tĩnh, xe ô tô không thể đi được vì các cầu phà bị đánh hỏng phải chuyển qua đi bằng xe đạp. Tôi được lệnh đón và đi cùng đoàn từ Bắc Quảng Bình vào Vĩnh Linh với nhiệm vụ là dẫn đường và nắm tình hình Đoàn 126 để hiệp đồng chiến đấu khi cần. Lúc này, tôi thấy việc bảo đảm an toàn cho đoàn trên đường đi là quan trọng nhất. Sau khi thống nhất kế hoạch chọn đường đi, đoàn phân ra thành từng tốp để hành quân. Tôi đi cùng tốp với anh Phát.

Ngày thứ 2 tôi thấy anh Phát đã thấm mệt, có lúc thấy anh lảo đảo. Vốn tuổi không còn trẻ, sức khỏe không được tốt, dọc đường lại ăn uống thất thường, chỉ cơm nắm, muối vừng nên dễ xuống sức. Lo cho sức khỏe của anh, tôi đề nghị đưa anh vào nghỉ ở khu sơ tán cho lại sức rồi sẽ tiếp tục đi. Anh cười và nói: Cũng mệt thật nhưng anh em đi được thì tôi đi được. Có đi qua những nơi này mới tận mắt thấy hết tính chất ác liệt của chiến tranh phá hoại mà kẻ địch gây ra cho đồng bào. Chúng ta phải vượt qua, không cho phép mình dừng bước…

Đến Lệ Thủy, qua sông Kiến Giang, chúng tôi phải gửi xe đạp chuyển sang đi bộ. Mấy ngày sau đoàn quay trở ra mới biết, tối hôm gửi xe đạp, máy bay địch đánh phá ác liệt vào đây, xe để dưới giao thông hào mà nhiều chiếc bị bom bi làm thủng nham nhở. Anh Phát nói vui: Bom đạn tránh chúng ta, chứ chúng ta đâu có tránh bom đạn. Cả đoàn cùng cười và tiếp tục hành quân. Ngày hôm đó, cứ như máy bay địch đuổi theo chúng tôi. Dừng lại ăn cơm nắm buổi trưa mà cả 3 lần vừa bắt đầu ăn đều phải thu dọn nhanh để di chuyển vì máy bay địch ném bom vào đoạn đường mới đi qua.

Chiều hôm sau ra đến bờ nam sông Gianh, ban ngày trên bầu trời không ngớt tiếng máy bay Mỹ gầm rú, mặt sông không một bóng thuyền. Nhìn bờ bắc không một bóng người qua lại, nắng nóng càng làm cho không khí trở nên căng thẳng, ngột ngạt. Sau khi tìm chỗ sơ tán, tôi báo cáo xin phép anh Phát bơi sang bờ bắc tìm đò qua sông. Anh Phát nhìn tôi nghiêm nghị rồi nói dứt khoát: Sông rộng không bơi được, đợi khi có đò hãy qua sông! Tôi báo cáo lại: Chỗ này nằm trong khu vực đánh phá của địch, không hy vọng có đò lúc này, nếu ngồi đợi ở đây lâu không có lợi, trời tối xuống càng nguy hiểm.

Sau khi cân nhắc, anh đồng ý cho tôi bơi. Đồng chí Thụ cũng đề nghị được bơi cùng. Để đề phòng thủy lôi và bom từ trường, chúng tôi cởi hết đồ, chỉ mặc quần lót sang sông. Vừa qua bờ bắc, chúng tôi may mắn gặp được bác Dột, bí thư chi bộ xóm Đồng, xã Quảng Phúc. Bác là người rất gan dạ lãnh đạo bà con bám trụ ở đây sản xuất. Chưa nói hết lời, bác Dột không chút chần chừ vác mái chèo ra bến đưa đò cho chúng tôi qua sông. Hành động của bác Dột làm anh Phát cứ mãi tấm tắc khen ngợi người bí thư chi bộ xóm Đồng nhiệt tình, dũng cảm. Qua chuyến đi này, tôi thấy rõ quyết tâm và lòng nhiệt tình của anh Phát”.

Các bác ở Bộ Hải sản (sau này là Bộ Thủy sản), nơi Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát chuyển ngành qua nhận chức vụ Thứ trưởng còn nhắc lại về một người thủ trưởng đã phát huy một cách sinh động truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam trong lĩnh vực công tác mới. Trên cương vị Thứ trưởng, Nguyễn Bá Phát đi sâu đi sát từ biển cả lên đến tận ngọn nguồn sông suối nước ta. Ông chăm lo việc giải quyết đời sống đồng bào dân tộc thiểu số bằng nghề thủy sản. Ông tham gia chỉ đạo và tổ chức việc đưa “Ao cá Bác Hồ” lên miền ngược có kết quả, được đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc hoan nghênh.

Khi Trung ương điều vị Tư lệnh Hải quân có nhiều thành tích về Bộ Thủy sản là để nhận chức vụ Bộ trưởng, nhưng ông từ chối và giới thiệu một vị Thứ trưởng có học vấn cao hơn, còn ông với tinh thần trách nhiệm cao chỉ làm Thứ trưởng thứ nhất, kiêm Bí thư Đảng ủy của Bộ. Phẩm chất, đạo đức của ông đến mãi tận bây giờ vẫn được nhiều người trong Bộ Thủy sản nhắc đến như một hành vi đáng kính trọng của vị Tư lệnh Hải quân nổi tiếng.

Khép lại câu chuyện cảm động về Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, chúng tôi đã lược ghi lại lời kể của Đại tá Nguyễn Xáng, nguyên Bí thư cho Tư lệnh Nguyễn Bá Phát. Trong những phút cuối đời, Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát vẫn canh cánh một nỗi niềm, đó là chưa lo trọn vẹn được “hậu phương quân đội” đối với Quân chủng Hải quân: “Tôi ân hận là chưa có một kế hoạch, dành thời gian chăm lo, sắp xếp sự ổn định hậu phương của cán bộ Hải quân ta. Rồi đây với sự phát triển của đất nước, cuộc sống nhân dân sẽ dần dần thay đổi, chắc hẳn cuộc sống của cán bộ, chiến sĩ Hải quân ngày càng được cải thiện và tốt đẹp hơn. Tôi mong mỏi ngày đêm như thế”.  

TRỊNH VĂN DŨNG