QĐND - Có lẽ đã hơn 10 năm nay, sức khỏe Thượng tướng Hoàng Cầm yếu đi nhiều, ông không còn đi ra ngoài được. Binh đoàn Cửu Long cử một chiến sĩ trẻ luôn ở cạnh chăm sóc vị tư lệnh đầu tiên. Ông ở trong ngôi biệt thự cũ đã xuống cấp, nhiều phòng để trống, đồ đạc là những thứ rất cũ, thời này người ta đã thải đi để thay đồ mới hơn. “Những thứ này có hồn vì mình có những kỷ niệm về nó”. Có lần ông bảo tôi vậy.
 |
Thượng tướng Hoàng Cầm và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh tư liệu |
Thượng tướng Hoàng Cầm sống chân tình, thương cấp dưới, nhất là chiến sĩ, được mọi người kính nể. Dù đã nghỉ hưu khá lâu nhưng ông luôn có khách đến thăm. Khách của ông phần đông là đồng đội cũ, mọi người đều nhớ Hoàng Cầm là Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên của Binh đoàn Cửu Long. Cho dù tuổi cao, sức yếu, căn bệnh của tuổi già hoành hành, nhưng ông vẫn tỉnh táo, trò chuyện được với khách. Với Thượng tướng Hoàng Cầm, khách tới thăm đều trọng như nhau, bất kể người đó cấp bậc chức vụ gì. Cách đây chừng 10 năm, khi ông còn khỏe, tôi đã gặp ông trò chuyện rất cởi mở với một người chiến sĩ Sư đoàn 9 thời đánh Mỹ nay hành nghề chạy xe ôm. Trước khi chia tay, người chiến sĩ ấy muốn chụp với ông một kiểu ảnh ông mặc quân phục, đeo quân hàm. Lúc ấy tôi và mấy người có mặt hơi ngại với yêu cầu ấy, nhưng Thượng tướng Hoàng Cầm vui vẻ đáp ứng nguyện vọng với người lính cũ. Sau khi tiễn người chiến sĩ về, ông kể cho chúng tôi nghe lần được gặp Bác Hồ trước khi vào chiến trường miền Nam, được Bác dặn, các chú vào trong đó cần phục vụ đồng bào, chiến sĩ vô điều kiện. Phục vụ đồng bào thì ông đã rất rõ, nhưng phục vụ chiến sĩ khiến ông nghiền ngẫm lâu mới hiểu. Và, ông nhớ lại lời Bác dạy cán bộ trong chiến dịch Biên Giới 1950: “Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ không được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc, cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ không được kêu mình mệt”.
Thượng tướng Hoàng Cầm mang phẩm chất chất phác của một người xuất thân từ một gia đình nông dân, rất ham trồng cây. Ông có nhiều cái nhất, hay nói cách khác là mang con số Một, số đầu tiên. Ông là thương binh có số thẻ 01, là sư đoàn trưởng sư đoàn thành lập đầu tiên ở miền Đông Nam Bộ, là Tư lệnh kiêm Chính ủy đầu tiên của Binh đoàn Cửu Long. Đó là chưa nói tới ông là một trong những Trung đoàn trưởng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, là Tư lệnh Chiến dịch Phước Long, giải phóng trọn vẹn một tỉnh đầu tiên ở miền Nam, mở đầu cho Đại thắng Mùa xuân 1975.
Tôi được gặp Thượng tướng Hoàng Cầm khi tôi đang là phóng viên mới học nghề ở báo Binh đoàn Cửu Long. Hôm ấy, ông từ chỉ huy sở đến tòa soạn, lúc ấy chỉ một mình tôi ở nhà, trao cho tôi cái phong bì:
- Mình vừa làm bài thơ về chiến thắng Phước Long, các cậu đọc và góp ý, nếu thấy đăng được lên báo thì đăng, nó cũng chỉ ở tầm báo quân đoàn ta thôi.
Nói dứt lời ông cười hồn nhiên. Rồi ông bắt tay tôi: “Mình đang họp Bộ tư lệnh, không nói chuyện được”. Tôi lặng ngắm ông sải những bước dài về sở chỉ huy. Vâng, trước khi làm lính binh đoàn này, tôi đã được đọc và nghe nhiều câu chuyện về vị tướng tài ba Hoàng Cầm, có những chuyện nghe như huyền thoại nhưng sau đó tôi kiểm nghiệm thấy thực tế đúng vậy. Đó là chuyện vào quá nửa đêm 10-1-1965, đang về nghỉ ở nhà riêng, một đồng chí công tác ở Cục Cán bộ mang đến lệnh vào chiến trường miền Nam, và chỉ 30 phút chuẩn bị, vừa gấp quân phục, vừa dặn vợ con, rồi lên xe tới nơi tập kết. Sự kiện ấy được toàn quân học tập.
Và, tôi run run mở phong bì đọc thơ của tướng Hoàng Cầm. Thơ kể về diễn biến Chiến dịch Phước Long. Thú thực, lời thơ quá nôm na. Sau này, gặp nhà thơ Chế Lan Viên đi thực tế ở binh đoàn, khi nghe chúng tôi thuật lại thơ của Tư lệnh Hoàng Cầm, nhà thơ Chế Lan Viên không hề ngạc nhiên: “Mỗi người trời cho một khả năng, một tài năng ở một lĩnh vực. Tư lệnh Hoàng Cầm là một vị tướng từng chỉ huy một trung đoàn chủ lực đánh rã quân Pháp ở Điện Biên Phủ, rồi chỉ huy Quân đoàn 4 giải phóng Sài Gòn-Gia Định, cùng với quân đội cách mạng Cam-pu-chia giải phóng đất nước Chùa Tháp khỏi họa diệt chủng, vậy là rạng danh rồi”. Với ánh mắt tinh nghịch, giọng hóm hỉnh, nhà thơ họ Chế nói tiếp: “Nước ta có 3 ông Hoàng Cầm nổi danh: Tướng Hoàng Cầm đánh đông dẹp bắc, ông Hoàng Cầm nhà thơ tác giả của Bên kia sông Đuống, Lá diêu bông, ông Hoàng Cầm thứ ba vốn là chiến sĩ hậu cần đã sáng tạo nên cái bếp che mắt địch, mang tên bếp Hoàng Cầm”.
Ngày còn công tác, Thượng tướng Hoàng Cầm ít khi kể chuyện về mình. Một đôi lần chúng tôi gợi ý ông kể về những trận đánh, những chiến dịch ông từng chỉ huy, ông liền gạt đi. Theo ông, việc cần thiết nhất là nhiệm vụ binh đoàn đang thực hiện phải làm cho thật tốt. Sau này, khi nghỉ hưu về sống trong ngôi nhà yên tĩnh ở quận 3, nhiều buổi chiều đi làm về tôi thường ghé thăm ông và ông hào hứng kể cho tôi nghe những trận đánh, những chiến dịch mà ông trực tiếp tham dự, chỉ huy.
Khi nghe tôi hỏi về trận đánh khiến ông bị thương, ông im lặng một lát rồi kể:
Đó là vào tháng 7-1947, Đại đội 250 chúng tôi nhận lệnh hoạt động ở vùng địch hậu Mộc Châu, khu du kích Mộc Hạ, làm nhiệm vụ phát động quần chúng. Một hôm, nhận được tin quân Pháp từ Hòa Bình mở cuộc càn quét lớn vào Đà Bắc. Chúng tôi tổ chức phục kích đánh nhỏ, đánh tập kích để làm giảm tốc độ hành quân của địch để đồng bào ta kịp sơ tán. Chính lối đánh phục kích, phân tán địch để diệt khiến chúng thiệt hại nặng nề. Một hôm, đơn vị tôi đang xuất kích thì địch nã một tràng súng máy, tôi nghe nhói ở cánh tay phải và ngất đi. Anh em tưởng tôi đã chết nên lấy chăn gói kín, chuẩn bị mang đi mai táng. Nhưng rồi, tôi đã tỉnh lại và hỏi: “Sao các đồng chí buộc kín tôi thế này?”. Một người vừa mở chăn vừa nói: “Tưởng anh đã hy sinh nên chúng em làm công việc khâm liệm”. Rồi tiếng nhiều người òa khóc, một người xin lỗi tôi. Vết thương quá nặng nên tôi phải đi bệnh xá dã chiến điều trị 3 tháng mới hồi phục sức khỏe. Nhưng cái di chứng nặng nhất là tay phải từ đó về sau không thể cầm bút viết được, đành phải viết bằng tay trái, nét chữ vốn như gà bới càng nguệch ngoạc thêm. Sau trận đánh ấy, tôi được Chính phủ tặng Huân chương Quân công hạng ba. Thực ra, công lao của anh em trong đơn vị lớn hơn tôi nhiều.
Hoàng Cầm là thế, bao giờ ông cũng đề cao công lao của tập thể. Ông rất ghét chủ nghĩa cá nhân vì đó là nguyên nhân dẫn đến chủ nghĩa cơ hội và nhiều căn bệnh trầm kha khác. Tôi nhớ một lần, trong buổi liên hoan giáp Tết Nguyên đán, một người phát biểu nên đề nghị phong Tư lệnh Hoàng Cầm danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Ý kiến ấy lập tức được nhiều cán bộ cao cấp có mặt hôm đó hưởng ứng. Vâng, một người như Hoàng Cầm rất xứng đáng với danh hiệu anh hùng. Và chúng tôi hồi hộp chờ ý kiến của Tư lệnh.
Vẫn phong thái điềm tĩnh, ông nói rằng, tất cả những việc ông làm được đều do tập thể các ban chỉ huy, bộ chỉ huy và nhất là chiến sĩ và cán bộ toàn đơn vị góp phần làm nên. Còn danh hiệu anh hùng phải dành cho chiến sĩ, cán bộ cấp cơ sở, những người trực tiếp cầm súng chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Rồi ông kể lại lần gặp Bác Hồ, Bác nói: “Bác cháu ta đi làm cách mạng là để giải phóng đất nước khỏi họa ngoại xâm, nhân dân được hưởng hòa bình, hạnh phúc, ấm no chứ đâu phải để lấy chức tước này, danh hiệu nọ, phải không các chú?”. Rồi ông nhắc lại chuyện Bác không nhận Huân chương Sao Vàng và rất nhiều danh hiệu, giải thưởng trong nước và nước ngoài tặng. Và ông kết luận, hãy dành danh hiệu cao quý ấy cho những chiến sĩ ưu tú nhất của binh đoàn.
Chúng tôi rưng rưng xúc động trước lời phát biểu chân thành và sâu sắc của Tư lệnh. Nhân dịp ấy, Thiếu tướng Bùi Cát Vũ, Phó tư lệnh binh đoàn, kể chuyện lần gặp Bác trước khi vào Nam chiến đấu, Bác nhìn mấy cán bộ mang quân hàm cấp tướng và nói: “Các chú vô trong đó phục vụ thật tốt đồng bào. Cấp càng cao càng phải phục vụ tốt hơn, tận tụy hơn”.
Thượng tướng Hoàng Cầm là người để lại nhiều ấn tượng cho cán bộ và chiến sĩ của mình không chỉ bằng tài năng chỉ huy, lãnh đạo xây dựng đơn vị mà còn bằng đức tính giản dị, khiêm tốn. Ông là một trong những vị tướng tài của quân đội ta.
Nguyễn Quốc Trung