Đầu tháng 4-2023, tôi thực hiện chuyến công tác Trường Sa với rất nhiều anh chị em văn nghệ sĩ, báo chí. Mọi người ai cũng háo hức, nhất là khi có cánh chị em đoàn văn công, hội phụ nữ áo dài tha thướt trên boong tàu lấp lánh sao vàng thì dường như thơ ca nổi lên khắp nơi. Trên tàu còn phát động hẳn một cuộc thi sáng tác văn thơ, âm nhạc rất rôm rả.
Lần đi ấy, tôi tuy đã ở độ tuổi 50, sắp lên chức ông nội mà quên béng mất cứ tưởng mình đang hồi trung úy vác máy quay phim các đảo nổi, đảo chìm ở Trường Sa; đang cùng cánh văn công hát cho chiến sĩ Trường Sa da nắng cháy đen nhẻm, tóc râu ngô tôm luộc, hàm răng trắng lóa mây trời. Tôi bàn với Đại tá, nhà báo Ngô Anh Thu, Phó tổng biên tập Báo Quân đội nhân dân phải tìm mọi cách lên chuyến xuồng đầu tiên-xuồng kỹ thuật đến mọi điểm đảo. Mới đầu còn khó khăn do đoàn đã lập danh sách từ trước, sau chẳng hiểu tại sao, cứ thấy tôi và anh Ngô Anh Thu là lập tức được ưu tiên đi chuyến số 1 để vào đảo đầu tiên cùng đội ngũ kỹ thuật chuẩn bị mọi việc cho thủ trưởng và đoàn công tác lên đảo.
    |
 |
Nhà văn Phùng Văn Khai (ngoài cùng, bên phải) và nhà báo Ngô Anh Thu (ở giữa) trao đổi về hình ảnh tác nghiệp ở Trường Sa. |
Chỉ tới ngày thứ hai, tôi đã “nổi tiếng” khắp tàu bởi khả năng làm thơ và đọc thơ tại thực địa cho bộ đội nghe. Thời đại công nghệ số nên mọi thứ lan truyền rất nhanh. Nếu tôi không theo xuồng vào đảo thì đều lên đài chỉ huy tàu “chế tạo” các bài thơ để đọc ngay, hay trong các cuộc giao lưu văn nghệ thường xuyên tổ chức mỗi buổi tối trong tàu và gửi ngay về các báo, tạp chí ở đất liền. Các anh chị, nhiều vị tướng lĩnh rất yêu thơ thường dành thời gian và cả những món quà nho nhỏ thú vị tặng thưởng cho tôi. Nhiều anh chị “đặt hàng” tôi viết những bài thơ về vùng miền, tên đất, tên làng, tên danh lam thắng cảnh, tâm tư tình cảm của các quân, binh chủng gắn với bộ đội Trường Sa. Tôi khi đó đã dành tất cả thời gian, trí tuệ và cảm hứng để làm thơ truyền đạt tình cảm của các anh các chị với Trường Sa thân thương, với chiến sĩ Trường Sa dạn dày nắng gió.
Nhưng thú vị nhất vẫn là làm thơ và đọc thơ cho cánh lính trẻ trên các đảo ở Trường Sa. Ở đảo Đá Nam, trước cánh lính biển đen sạm vì nắng gió, những vần thơ đã ùa đến với tôi. Tôi ghi vội ra cuốn sổ mặn mòi hơi muối biển và đọc ngay: “Chúng tôi tám mặt biển/ Đều hướng về đất liền/ Lính Đá Nam là vậy/ Màu da nhìn quen quen. Cậu này quê Nông Cống/ Cậu này ở Kim Liên/ Còn cậu này có vợ/ Ở chân cầu Long Biên. Có một cậu rất oách/ Thơ cỡ Trần Đăng Khoa/ Một cậu khỏe ra phết/ Bơi một vòng Trường Sa. Giữa biển, trời, mây, nước/ Môi ai cũng đỏ hồng/ Nếu quân thù cướp đảo/ Đạn chúng tôi đỏ nòng. Bão tố thường chăm chỉ/ Người yêu thường dỗi hờn/ Đêm khuya về nhớ mẹ/ Nhìn mãi vầng trăng trong. Lính Đá Nam vững chãi/ Như lời dạy Bác Hồ/ Đảo Đá Nam mãi mãi/ Tươi nhuần một vần thơ. Dưới lá cờ Tổ quốc/ Người lính đảo Đá Nam/ Hiền như trăng như nước/ Mà kiên cường hiên ngang”.
Thật không ngờ, mạng truyền thanh về bài thơ đã truyền sang đảo Đá Tây và bộ đội ở đây nhất định bắt tôi phải tặng một bài thơ. Tôi bèn rút ra một góc trò chuyện với các chàng lính trẻ để hơn 10 phút sau đã có bài thơ tặng anh em.
“Đá cũng mềm như sóng/ Trên đảo chìm Đá Tây/ Lính thì rất “cứng cựa”/ Nếu kẻ thù đến đây. Lính đảo chìm Đá Tây/ Phần lớn đều chưa vợ/ Hẹn riêng với đất liền/ Một đám cưới tập thể. Cờ Đá Tây rất đỏ/ Phấp phới ngôi Sao vàng/ Hướng bay là Tổ quốc/ Hướng bay là nhân dân. Lính Đá Tây rất khỏe/ Nếu có phải thi ăn/ Mười bát là “chuyện nhỏ”/ Toàn sạch “trăm phần trăm”. Đá Tây là cột mốc/ Đá Tây là vợ hiền/ Không bao giờ ly dị/ Vì vợ quá thiêng liêng”.
Thấy các chùm thơ của tôi, bộ đội rất háo hức nghe và nhiệt tình cổ vũ. Các anh chị Đoàn Văn công Quân khu 9 đã đề nghị tôi cung cấp thơ vừa sáng tác để phổ nhạc hát ngay cho bộ đội nghe. Tôi bỗng dưng là một thành viên chính thức của đoàn văn công và được giới thiệu lên đọc thơ trước khi bài hát bắt đầu. Bài hát từ bài thơ “Đêm Trường Sa nhớ Bác” đã gây ấn tượng mạnh trên tàu KN 290 và nhất là trên các đảo, điểm đảo ở Trường Sa trong toàn bộ hải trình. Chính tôi cũng rất bất ngờ và hạnh phúc với những niềm vui như thế.
    |
 |
Nhà văn Phùng Văn Khai (hàng đầu, ngoài cùng, bên phải) cùng đoàn cán bộ, phóng viên vào đảo. Ảnh: MINH THU |
Đối với cánh báo chí, tôi thấy anh em còn chăm chỉ hơn nhiều. Nhà báo Ngô Anh Thu vô cùng xông xáo, có mặt mọi chỗ, mọi điểm đảo như thi đua với tôi. Các bạn phóng viên Điện ảnh Quân đội nhân dân, Trung tâm Phát thanh-Truyền hình Quân đội mồ hôi đẫm áo vác máy quay hàng chục cân chạy khắp nơi. Biên tập viên Lê Thị Phương Dung còn có sáng kiến thực hiện các talk show về rau xanh ở Trường Sa, đọc thơ ở Trường Sa... và mời tôi làm diễn giả chính. Tôi từng xuất thân phóng viên truyền hình nên rất cảm thông sự say nghề của các bạn đã gắng hết sức mình trong từng thước phim, bức ảnh, bài thơ, nét nhạc... hòa mình cùng sóng biển, hòa mình cùng chiến sĩ Trường Sa.
Không chỉ cánh báo chí, văn chương chuyên nghiệp mà dường như toàn tàu KN 290 ai cũng là nhà báo, nhà nhiếp ảnh, nhà thơ, ca sĩ, diễn viên với những tác phẩm của riêng mình. Khi nhổ neo rời các điểm đảo, anh chị em ùa lên boong chụp ảnh, hò hát, đọc thơ, biểu diễn rất sôi nổi. Quả là một hình ảnh đẹp giữa khung cảnh mây trời, sóng nước nơi biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Và hân hoan nhất là thủy thủ đoàn. Anh nào anh nấy ánh mắt như biết cười trước cánh văn công xinh đẹp như hoa.
Trước khung cảnh tươi tắn ấy, tôi liền hứng khẩu đọc ngay mấy câu thơ: Thủy thủ đoàn trẻ măng, tươi rói/ Đón anh em: “- Mời thủ trưởng lên tàu!/ Tà áo dài bay ánh mắt chừng bối rối/ Trường Sa mà! Cân vành mắt giùm nhau. Ánh mắt chị em cũng chừng sóng sánh/ Say biển trời, say sóng, say nhau/ Các anh ước mình thành ngọn gió/ Thổi dạt dào muôn nỗi nông sâu. Ta đi giữa biển trời Tổ quốc/ Ta nắm tay nhau trong sáng vô ngần/ Nơi đầu sóng là nơi bình yên nhất/ Như chủ quyền ta bền vững nghìn năm”.
Như chủ quyền ta bền vững nghìn năm! Lời câu thơ cũng là lời người chiến sĩ Trường Sa đang ngày đêm canh giữ biển trời Tổ quốc. Mỗi tấc đất, sải biển Trường Sa đều thẳm sâu từ nguồn cội nghìn năm mà tổ tiên ta, ông bà ta, mẹ cha ta đã trao truyền cho thế hệ chúng ta và mai sau. Và những người lính hôm nay ai cũng khắc ghi điều đó.
Trong cuộc đời tác nghiệp báo chí, thơ văn của tôi đã 31 năm (1994-2025), mỗi khi đến nơi biên giới, hải đảo, đặc biệt là Trường Sa, luôn cho tôi một tình cảm, sự xúc động hết sức đặc biệt. Và cũng từ Trường Sa, từ sự xúc động đặc biệt ấy, tôi càng nhận rõ niềm tin và trách nhiệm của mình không chỉ với người chiến sĩ Trường Sa.
Nhà văn PHÙNG VĂN KHAI