Cách đây hơn nửa thế kỷ, theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, những chàng trai đến từ mọi miền Tổ quốc đã tụ về trong đội hình của Trung đoàn 1. Đây là trung đoàn chủ lực đầu tiên của Quân giải phóng miền Tây Nam Bộ, ra đời ngày 23-9-1963 tại căn cứ U Minh. Những ngày đầu thành lập, lực lượng còn non trẻ, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều, vũ khí, trang bị thiếu thốn. Song bằng ý chí quyết chiến, quyết thắng, Trung đoàn đã liên tục lập công với nhiều trận đánh xuất sắc, đạt hiệu suất cao. Tại cuộc gặp mặt, giữa những vòng ôm thắm tình đồng đội, cái nắm tay siết chặt không rời, các CCB cùng ôn lại thời kỳ gian khổ, kiên cường và rất đỗi tự hào nơi chiến trường năm xưa. Tiếng nói, tiếng cười hòa trong nước mắt xúc động khi họ nhắc đến các trận đánh, địa danh đã trở thành mốc son lịch sử của đơn vị, như: Chà Là, Cái Nước, Lục Phi, Kinh Xuôi, Đầm Dơi, Thanh Thủy-Xẻo Giá, Lộ Vòng Cung trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; Phú Cường, Trà Teng, Vĩnh Điều, Bắc Đai trong chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam; Tà Keo, Cần Đan, Tức Sóc, Pursat, Battambang... trong chiến đấu giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, đồng thời xây dựng chính quyền cách mạng, ổn định tình hình, phát triển sản xuất.
    |
 |
Niềm vui của các cựu chiến binh trong ngày hội ngộ. |
Có mặt ở Trung đoàn 1 từ ngày đầu, CCB Nguyễn Thành Chiến, người trực tiếp tham gia trận đánh then chốt quyết định, kết thúc Chiến dịch Thu Đông 1963 ở miền Tây Nam Bộ vào Chi khu Chà Là kể: “Đêm 23, rạng sáng 24-11-1963, phối hợp với đơn vị bạn và lực lượng địa phương quân, Trung đoàn 1 tổ chức đánh điểm và đánh viện. Chúng tôi bám công sự chờ địch vào thật gần mới nổ súng. Cứ mỗi lần bộ đội xung phong là hàng chục tên địch bỏ xác dưới ruộng lúa. Nhiều đại đội nắm chắc thời cơ, dũng cảm xuất kích đánh thẳng vào đội hình địch đang rối loạn, diệt hàng trăm tên. Sau này chúng tôi được thông báo, trận này ta đã đánh địch thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn và 1 đại đội dân vệ, loại khỏi vòng chiến đấu gần 600 tên, bắn rơi 19 máy bay các loại”.
Tinh thần chiến đấu anh dũng, quả cảm của cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 1-U Minh đã được đúc kết trong 8 chữ vàng “Đi là đánh thắng, đánh là diệt gọn” do Bộ tư lệnh Quân khu 9 dành tặng. Trung đoàn vinh dự 3 lần được tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân; 3 tiểu đoàn, 6 đại đội và 26 cá nhân thuộc đơn vị cũng vinh dự nhận danh hiệu cao quý này. “Lập nên trang vàng chiến công, thành tích ấy, gần 5.000 đồng đội của chúng tôi đã anh dũng hy sinh trên các chiến trường. Hàng nghìn đồng chí là thương binh, bệnh binh, nhiễm chất độc hóa học. Máu xương các anh đã đổ xuống để có cuộc sống hòa bình, có ngày hội ngộ hôm nay. Năm tháng qua đi, bao gương mặt thân quen giờ đều đã đổi thay theo thời gian, nhưng những kỷ niệm thuở chung chiến hào thì vẫn còn vẹn nguyên”-Thượng tướng Mai Quang Phấn, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 303, Trung đoàn 1 xúc động nói.
Theo hồi ức của các CCB, ngày ấy, địa bàn hoạt động của Trung đoàn 1 hầu hết là sông nước. Tại vùng đất sình lầy, sông ngòi chằng chịt, với phương tiện di chuyển chủ yếu là ghe, xuồng, đã bao lần họ đối mặt với hiểm nguy cận kề. Nhớ lần cả Trung đoàn với quân số hơn 2.000 người vượt sông bằng xuồng ba lá, Thượng tướng Mai Quang Phấn kể: “Trung tuần tháng 11-1974, Trung đoàn được lệnh vượt sông Hậu sang chiến trường Vĩnh Trà. Trước khi vượt sông, chúng tôi được phổ biến kinh nghiệm bơi xuồng, thực hiện công tác chuẩn bị kỹ lưỡng, nhất là vũ khí, đạn dược. Quân tư trang bọc kín trong túi ni lông quấn nhiều lớp, nếu có bất trắc xảy ra sẽ thành phao cứu sinh để bộ đội bơi vào bờ. Theo kế hoạch, chúng tôi cứ 3 người một xuồng vượt sông theo đội hình một trước hai sau. Giữa dòng sông Hậu rộng hơn 1km, trong khi địch không ngừng tuần tiễu, đèn pha chiếu sáng, sóng đánh ầm ầm, những mái chèo vẫn lì lợm tách nước, len lỏi vượt sông. Liền 3 đêm, được sự giúp đỡ của nhân dân các địa phương cùng ý chí, tinh thần quyết tâm cao của bộ đội, toàn Trung đoàn đã hoàn thành cuộc vượt sông sang địa bàn chiến đấu mới an toàn, đúng kế hoạch”.
Còn CCB Trịnh Xuân Nại, đang sinh sống tại tỉnh Thanh Hóa thì nhớ mãi những ngày tham gia bảo vệ biên giới Tây Nam. Ông cho biết, ngay trong đêm 30-4-1977, khi quân Pol Pot vừa tấn công, Sư đoàn 330 đã lệnh cho toàn Trung đoàn 1 nhanh chóng cơ động lên biên giới thực hiện nhiệm vụ chiến đấu. “Chúng tôi là đơn vị bộ binh nhưng đánh theo lối của đặc công, cơ động rất nhanh, chủ yếu là “đánh lướt”, vừa qua Tân Châu, Khánh An, Khánh Bình chưa lâu thì đã xuất hiện ở Cầu Sắt, Núi Sam, Tịnh Biên hay núi Phú Cường, Tri Tôn, Hòn Heo, Hà Tiên... Cuối năm 1978, tôi được bổ nhiệm làm Đại đội trưởng Đại đội 2, Tiểu đoàn 2 (thành lập trên cơ sở Tiểu đoàn 307 trước đây). Bấy giờ, Đại đội 2 của tôi được lệnh tiến công về thủ đô Phnom Penh. Mục tiêu trước mắt là truy quét, tiêu diệt quân địch đồn trú ở dãy Bà Ca thuộc huyện R’Mia, tỉnh Tà Keo. Tôi nhớ trận đánh khoảng 3 ngày trước khi nước bạn được giải phóng, chỉ sau loạt pháo mở màn, đơn vị đã nhanh chóng tiến công làm chủ mục tiêu rồi tiếp tục phát triển vào căn cứ R’Mia. Tận dụng thời cơ thuận lợi, Đại đội 2 của tôi cơ động theo Quốc lộ 2, đánh chiếm sân bay Pochentong. Chúng tôi đánh đến đâu, địch đều không chống cự nổi, bỏ lại vũ khí, trang bị, chạy tán loạn đến đó. 18 giờ ngày hôm ấy, đại đội tôi đánh tới trung tâm thủ đô Phnom Penh. Đến đây, địch kháng cự yếu rồi cũng tháo chạy. Hợp cùng các hướng, ta làm chủ hoàn toàn thủ đô Phnom Penh”-CCB Trịnh Xuân Nại kể.
    |
 |
Thương binh hạng 2/4 Nguyễn Ngọc Liên chỉ vị trí mảnh đạn vẫn còn trên bàn tay trái. Ảnh: TUẤN TÚ |
Chỉ cho chúng tôi vị trí ở tay, chân với những vết sẹo còn hằn sâu trên da thịt, thương binh hạng 2/4 Nguyễn Ngọc Liên, 70 tuổi, nguyên chiến sĩ Trung đội trinh sát của Tiểu đoàn 309, hiện sống tại thôn La Thiện, xã Cổ Đô, TP Hà Nội kể: “Tôi nhập ngũ tháng 1-1973, sau đợt huấn luyện là hành quân vào thẳng miền Tây tham gia chiến đấu trong biên chế của Trung đoàn 1. Bị thương nhiều lần, nhưng cứ thấy khỏe người là tôi lại báo cáo xin đi đánh địch cùng đồng đội. Hiện tay trái của tôi vẫn còn mảnh đạn không thể lấy ra. Nó nằm gần dây thần kinh, nếu can thiệp ngoại khoa nguy cơ liệt rất cao. Thế là vui vẻ sống chung với nhau đã 51 năm”.
Trò chuyện với chúng tôi, ông Liên cũng như các CCB khẳng định, không chỉ có bộ đội miền Bắc vào chi viện, trong đội hình Trung đoàn 1 còn có hàng nghìn người con ưu tú của Cà Mau, Bạc Liêu. Những năm tháng chiến tranh gian khổ, biết đơn vị thiếu quân, bà con sẵn sàng tiễn chồng, con em mình vào bộ đội. Hết gạo có dân lo, hết thuốc trị bệnh có dân mua giúp, thương binh được dân chăm sóc, liệt sĩ được dân chôn cất. Tình cảm quân dân thắm thiết trước sau ấy được nối dài bởi những câu chuyện thời hậu chiến được các CCB trân trọng nhắc tới. Đó là sự đồng hành của những người con quê hương Vĩnh Long, Cần Thơ, như: Ba Dũng, Tư Phùng, Nam Dân, Nghiêm Chung Thư... đã tích cực đồng hành với Ban liên lạc từ các chuyến trở lại chiến trường xưa đầu tiên. Là tấm lòng của những thương binh, doanh nhân CCB dù mang trên mình thương tật vẫn tiếp tục cống hiến cho quê hương, đất nước và thường xuyên tài trợ các hoạt động nghĩa tình đồng đội như ông Nguyễn Xuân Mai, Nguyễn Chí Công, Đồng Xuân Thơm...
Những người con ưu tú ấy đã viết tiếp bản hùng ca về sự kiên cường và tinh thần cống hiến của những chiến sĩ “đi là đánh thắng, đánh là diệt gọn”. Trở về với cuộc sống đời thường, các CCB Trung đoàn 1-U Minh luôn tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các phong trào của địa phương, tham gia xây dựng quê hương, đất nước. Từ khi thành lập tháng 12-2013 đến nay, Ban liên lạc CCB Trung đoàn 1-U Minh khu vực Hà Nội tổ chức hàng trăm cuộc gặp mặt, hàng chục chuyến đi về nguồn, thăm chiến trường xưa. Những năm qua, Ban liên lạc đã tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các phong trào của địa phương, đặc biệt luôn chủ động, tích cực trong các hoạt động nghĩa tình, tri ân. Đến nay, Ban liên lạc đã phối hợp xác định danh tính được 51 hài cốt liệt sĩ. Và hành trình đi tìm đồng đội vẫn được viết tiếp bởi những người lính từng vào sinh ra tử năm xưa, đang lặng thầm tỏa sáng phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong cuộc sống hôm nay.