Tôi sinh năm 1920 tại TP Cần Thơ. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tôi tham gia phong trào truyền bá chữ quốc ngữ, rồi vào Thanh niên Tiền phong, đánh chiếm dinh Khâm sai trong những ngày Tổng khởi nghĩa. Từ Sài Gòn, ra đi kháng chiến chống thực dân Pháp rồi chống đế quốc Mỹ, tôi theo các đồng chí lên R. Nhân sĩ, trí thức lần lượt rời Sài Gòn vào căn cứ. Người đầu tiên là bác sĩ Phùng Văn Cung. Ngày 18-10-1960, ông cùng vợ, 2 con gái (2 con trai đã ra miền Bắc học) từ bỏ hết gia sản và chức vụ trong bộ máy địch để mạnh bước đi theo cách mạng.

Tôi nhớ, gia đình bác sĩ Phùng Văn Cung đến vùng căn cứ vào mùa nước, có nơi nước sâu ngang bụng. Gần một đại đội được huy động để khiêng võng và bảo vệ, trong khi bấy giờ lực lượng bảo vệ căn cứ R chưa tới một trung đoàn. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, người lãnh đạo Đảng cao nhất ở miền Nam thuở ấy, tổ chức một bữa cơm chào mừng. Tưởng chừng như chúng tôi chưa bao giờ được ăn một bữa cơm nào ngon và hào hứng hơn thế trong đời. Trên đường rừng về cơ quan, trong màn đêm đen mịt không đèn pin, anh Ba Lâm, tức Nguyễn Văn Ngoạt, lúc ấy là Thường trực Ban Tổ chức R, tâm sự với tôi: “Anh Út à, bữa cơm hôm nay có thể giúp anh em mình chịu đựng ít nhất một tuần lễ”! Thương thay, không lâu sau đó, trên đường công tác, anh đã bị địch sát hại. Chúng cũng đã phục kích, chặt đầu anh Năm Ninh, người trưởng trạm giao liên hiền hậu, dễ thương, đã luồn lách, vất vả lo tổ chức tốt buổi họp mặt đầy thân tình giữa những người lãnh đạo cách mạng miền Nam với gia đình bác sĩ Phùng Văn Cung...

leftcenterrightdel

Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trao tặng quân và dân Vĩnh Linh (Quảng Trị) cờ của Mặt trận, tháng 3-1969. 

Phong trào đấu tranh chính trị và vũ trang của quần chúng khắp miền Nam phát triển ngày càng mạnh và rộng, đòi hỏi phải gấp rút có một trung tâm lãnh đạo. Ngày 20-12-1960, tại một địa điểm ở rừng Tây Ninh, trong khung cảnh giản dị nhưng trang nghiêm, đại diện các lực lượng yêu nước, nhân sĩ, trí thức dự lễ thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, cử ra Ủy ban Trung ương Mặt trận, thông qua và công bố chương trình 10 điểm, hiệu triệu nhân dân miền Nam đứng lên chống Mỹ-Diệm, đấu tranh cho một miền Nam Việt Nam độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quốc.

Không lâu sau ngày đáng ghi nhớ ấy, Mặt trận long trọng đón nhận một thành viên mới là LLVT giải phóng. Ngày làm lễ đón nhận thành viên mới này cũng đồng thời là ngày ra mắt một bộ phận Ủy ban Trung ương lâm thời và ngày chính thức xuất hiện lá cờ đấu tranh của Mặt trận. Hôm ấy, một cuộc mít tinh lớn công khai đầu tiên có hàng nghìn người dự. Đèn điện sáng rực một khu rừng vùng Trảng Chiên. Đoàn Chủ tịch cuộc mít tinh là bác sĩ Phùng Văn Cung, đồng chí Nguyễn Văn Linh (đây cũng là lần đầu tiên xuất hiện tên họ của Bí thư Trung ương Cục), Lê Thanh (đại diện LLVT giải phóng), Nguyễn Văn Hiếu (Trưởng ban Sáng lập Đảng Xã hội cấp tiến miền Nam Việt Nam) và tôi-Ung Ngọc Ky (đại diện Đảng Dân chủ miền Nam Việt Nam). Sau hơn 6 năm kiên cường chiến đấu, mỗi người bám chặt một chiến trường, ăn mặc thiếu thốn, ngủ bụi, nằm hầm, nay hội tụ đông đủ về đây trong tư thế người chiến thắng, với những bộ quần áo ka ki, mũ tai bèo mới, súng ống san sát, dưới hàng trăm ngọn đèn điện sáng choang. Tất cả là chiến lợi phẩm của những trận đánh thắng Dầu Tiếng, Tua Hai... nổi tiếng. Xúc động biết bao khi lá cờ lớn với hai màu xanh, đỏ có ngôi sao vàng tươi thắm được kéo lên, phấp phới hiên ngang trong gió rừng chiến khu. Điều gây ấn tượng mạnh hơn cả là lúc bác sĩ Phùng Văn Cung, nhân danh Ủy ban Trung ương lâm thời Mặt trận trao cờ lệnh cho đồng chí Phạm Công Kỉnh, người chỉ huy lực lượng bảo vệ khu căn cứ, giữa lúc hàng nghìn chiến sĩ bồng súng chào và bản nhạc “Lên đàng” hùng tráng cất cao như thúc giục mọi người xả thân xông tới. Nghe được tiếng nhạc giục giã quen thân này, nhìn lá cờ quyết chiến quyết thắng này, chúng tôi rưng rưng, sung sướng, tự hào, tràn đầy niềm tin. Kể từ hôm ấy, ngày 15-2-1961, lá cờ quyết chiến quyết thắng của Mặt trận xuất hiện khắp mọi vùng, miền, mọi nẻo đường miền Nam Việt Nam, kể cả trong lòng các đô thị và trung tâm thành phố Sài Gòn. Lực lượng cách mạng nói chung, LLVT nói riêng lớn nhanh như Phù Đổng.

leftcenterrightdel
Mít tinh kỷ niệm 5 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại chiến khu Đ. Ảnh: HỒNG LỰU 

Thế rồi, một tin vui lớn loan nhanh: Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đã được giải thoát khỏi nơi địch giam giữ ở Tuy Hòa ngày 30-10-1961 và về tới khu căn cứ an toàn. Với tấm lòng yêu nước và uy tín lớn, luật sư Nguyễn Hữu Thọ là nhân vật đang được mong chờ để đứng đầu Mặt trận, để phất cao ngọn cờ quyết chiến quyết thắng.

Công tác chuẩn bị tổ chức một đại hội để cử ra Ủy ban Trung ương chính thức của Mặt trận được tiến hành gấp rút. Chúng tôi phải chạy đua với thời gian để hoàn thành kịp thời Đài Phát thanh Giải phóng, đã được chuẩn bị gần một năm trước tại căn cứ Mã Đà. Đúng 18 giờ 30 phút ngày 16-2-1962, trong niềm phấn khởi mãnh liệt của 14 triệu đồng bào miền Nam, Đài Phát thanh Giải phóng cất cao tiếng nói chính nghĩa, tiếng nói bất khuất của mình bằng 5 thứ tiếng: Việt, Hoa, Khmer, Pháp, Anh. Tôi nhớ, hôm ấy, gần đông đủ cốt cán của Mặt trận quây quanh một máy thu thanh đã cũ, đặt tại hội trường nằm giữa hai ngôi nhà của bác sĩ Phùng Văn Cung và đồng chí Võ Chí Công để đón chờ tiếng nói thân yêu của cơ quan phát ngôn đầy uy lực của mình. Vì trang bị, phương tiện thiếu, trình độ kỹ thuật chưa cao, sóng bị nhiễu nhiều nhưng không ai dám vặn điều chỉnh để đổi làn sóng vì sợ mất tiếng nói biết bao chờ mong. Không thể nào quên được niềm xúc cảm của những người có mặt hôm ấy, sau khi nghe được nhạc hiệu “Lên đàng” của đài và tiếp theo là tiếng nói rưng rưng xúc động nhưng đĩnh đạc của người xướng ngôn viên: “Đây, Đài Phát thanh Giải phóng, tiếng nói bất khuất, tiếng nói kiên cường, tiếng nói chính nghĩa của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam” thì ai nấy mắt lệ nhòa vì rung cảm tột cùng!

Từ ngày ra đời đến Đại hội lần thứ nhất của Mặt trận, Ủy ban nhân dân tự quản tự chuyển thành Ủy ban giải phóng và phát triển ngày càng nhiều. Ủy ban giải phóng đảm nhiệm chức năng của chính quyền ngày càng rõ nét và có hiệu quả, chăm lo nhiều mặt đời sống của nhân dân, nhất là trong việc bảo vệ nhân dân chống địch càn quét, cướp bóc, khủng bố, tàn sát; trong việc cung cấp lương thực và vận động tuyển mộ tân binh cho LLVT. Đặc biệt, tùy tương quan lực lượng so với địch ở từng nơi mà giành lại quyền lợi ruộng đất cho nông dân... Và tuy chưa thành lập Chính phủ nhưng Mặt trận được nhiều nước tiếp nhận đại diện chính thức, thậm chí có nơi còn công nhận Đại sứ đặc mệnh toàn quyền.

Biết rằng sức mạnh của phong trào cách mạng miền Nam được lãnh đạo bởi Trung ương Cục và Ủy ban Trung ương Mặt trận, Mỹ-ngụy quyết tiêu diệt cơ quan đầu não này. Chiến dịch Junction City diễn ra trong mùa khô năm 1967. Quân Mỹ với một lực lượng tập trung lớn chưa từng thấy trên một vùng đất hẹp của căn cứ Tây Ninh. Chúng tôi đã chiến đấu kiên cường. Các mục tiêu của chiến dịch mà Mỹ-ngụy đề ra không thực hiện được. Cuộc hành quân Junction City thất bại toàn diện, góp phần đưa nước Mỹ vào cuộc khủng hoảng chính trị mà Lầu Năm Góc thuở ấy đã thừa nhận. Phong trào đấu tranh của nhân dân ta, sau chiến thắng Junction City phát triển mạnh. Theo đà đó, Ủy ban nhân dân giải phóng được thành lập chẳng những sát vùng ven các đô thị mà có nơi còn được thành lập ở từng khu vực trong lòng các đô thị.

Phải chuẩn bị sẵn sàng cơ sở chính trị cho một thời cơ lớn. Chương trình hành động 10 điểm của Mặt trận từ khi ra đời đã không còn phù hợp. Cần có một cương lĩnh chính trị làm cơ sở hành động cho một Chính phủ Cách mạng lâm thời khi thời cơ đến. Vì vậy, từ ngày 15 đến 20-8-1967, tại một địa điểm còn dày đặc hố bom đạn, Đại hội bất thường của Mặt trận đã diễn ra trong không khí sôi nổi, hào hứng và tràn đầy niềm tin. Đây cũng là đại hội cuối cùng của Mặt trận. 

Trên cơ sở Cương lĩnh chính trị được thông qua tại Đại hội bất thường và bối cảnh khả năng giải phóng miền Nam bằng bạo lực chính trị và vũ trang ngày càng rõ, Trung ương Cục miền Nam và Trung ương Mặt trận ban hành chỉ thị và ráo riết hoàn thành xây dựng chính quyền ở tất cả các cấp để từ đó thành lập Chính phủ Cách mạng lâm thời. Chỉ sau hơn 6 tháng, chính quyền ở các xã giải phóng được xây dựng rộng rãi và mau lẹ. Nhân dân hưởng ứng nhiệt tình, bàn bạc, tuyển chọn đại biểu sôi nổi, tỷ lệ từ 90% đến 100% cử tri hăm hở đi bầu cử. Một chính quyền cách mạng đã được thành lập một cách dân chủ dưới bom đạn ác liệt của quân thù. Chính quyền ấy thật sự đem lại cho đồng bào quyền dân chủ, dân sinh, quyền được sống tự do, bình đẳng, thương yêu, đùm bọc và sống với nhau đầy tình người.

PHƯƠNG HOA (theo lời kể của đồng chí Ung Ngọc Ky, nguyên Phó tổng thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam)