Thoát vòng vây của địch

Anh Mai Ngọc Hà ở phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng), con trai của ông Mai Ngọc Châu luôn nâng niu cuốn nhật ký của cha viết cho mình từ gần 50 năm trước. Cha của anh từng tập kết ra Bắc, rồi trở về hoạt động ở chiến trường Quảng Đà. Năm 1966, người con vùng đất Ngũ Hành Sơn được gặp Bác Hồ. Ông còn có 393 lần đi báo cáo trong và ngoài nước chuyện quân dân Hòa Vang đánh Mỹ. Ông vào Nam hoạt động lần thứ hai (năm 1973) một thời gian ngắn, rồi trở ra Bắc vì sức khỏe yếu. Ông Châu mất năm 1990 tại quê hương Hòa Vang sau khi rời cương vị Bí thư Đảng ủy phường Thọ Quang, quận Sơn Trà (Đà Nẵng). Tuổi thơ cùng biến cố cuộc đời mưu sinh vất vả khiến anh Hà ít chia sẻ với người khác. Chẳng thế mà quyển nhật ký của cha, điều có thể hé lộ về cuộc sống của người cán bộ Huyện ủy suốt 48 năm qua, anh Hà giữ kín cho đến nay.

Trang đầu tiên, ông Mai Ngọc Châu viết: “Để ghi chép những mẩu chuyện hằng ngày có tính chất kỷ niệm sâu sắc từ ngày xa quê hương. Nhất là hoạt động đi báo cáo một số nước trên thế giới việc đánh Mỹ của nhân dân Hòa Vang”. Khi còn sống, ông từng tâm sự: “7 năm ba công tác ở huyện nhà đầy gian khổ. Địch lập chính quyền kìm kẹp, nhân dân không ai dám liên lạc với cộng sản, do đó, việc hoạt động vô cùng phức tạp. Ba chủ yếu nằm trong hầm, có lúc ngoài rừng hay bờ bụi vắng người. 7 năm thì gần 3 năm không thấy mặt trời...”.

leftcenterrightdel
 Đồng chí Mai Ngọc Châu (đội mũ tai bèo) trong chuyến thăm Cuba dự hội nghị châu Mỹ-Latin năm 1967. Ảnh chụp lại

Trận đánh ở núi Non Nước tháng 4-1963 được người cha kể tỉ mỉ nhất. Ông Châu cùng hai đồng chí của mình trú ẩn trong hang để hoạt động thì bị gián điệp địch bỏ thuốc mê vào thức ăn. Thấy ông còn tỉnh táo, không thể bắt sống được, chúng ném lựu đạn hòng tiêu diệt. Hai đồng chí hy sinh, ông bị thương nặng vẫn bắn trả quyết liệt. Chúng vừa kêu hàng vừa ném bom xăng làm cháy hết quần áo, tăng cường nhiều đại đội canh gác quanh hang Non Nước, đèn măng-sông sáng trưng một vùng. Hai ngày đêm nằm im, 4 giờ sáng hôm sau nữa, đợi chúng mỏi mệt, mất cảnh giác, Mai Ngọc Châu trườn xuống núi. Địch phát hiện đuổi theo, suốt 13 ngày, ông cầm cự giữa vòng vây dày đặc của kẻ thù mà vẫn sống sót kỳ lạ. Ông dành nhiều trang để mô tả “cuộc chiến” tìm... chiếc quần đùi quá đỗi bi thương: “Mấy ngày liền không cơm ăn, vết thương sưng mủ nặng, quần áo không có, cứ ở trần. Ba nghĩ, thế nào cũng chết. Chết cũng phải có cái quần đùi mặc che thân, cho đồng bào họ chôn. Ba quyết định về làng, ghé nhà cô của con. Địch vẫn rình rập xung quanh. Cô Hai cho ba cái quần đùi có nhiều miếng vá và một số tiền bảo ba đi gấp, kẻo lộ. Ba không lấy tiền, dặn cô con: “Nếu lỡ em chết, đừng khóc, đừng đến, kẻo địch khủng bố gia đình!”. Tại sao cô của con không cho ba cái quần mới mà đưa em mình cái quần cũ vá, con biết không? Vì cô con biết rằng, nếu đưa quần mới nếu bị địch bắt, địch sẽ phát hiện ba không có quần áo (vì đã bị cháy-NV) nên đi xin...”.

Sức sống mãnh liệt của người cộng sản đã vượt qua tàn khốc của chiến tranh. Đi đến đâu ông cũng được nhân dân âm thầm ủng hộ. Khi ông nhổ đậu nhà bà Nga để ăn, bà lặng lẽ xóa dấu vết. Cô Sáu thì đưa ông đến nhà cơ sở tin cậy có người làm cảnh sát khiến địch không thể nghi ngờ. Tại đây, ông được chữa lành vết thương đã bắt đầu hoại tử. Vừa hồi phục, ông Mai Ngọc Châu đã cùng đồng chí của mình tiếp tục lãnh đạo nhân dân đấu tranh chính trị quy mô toàn thành phố Đà Nẵng nhân vụ việc giặc Mỹ ném bom sát hại 45 học sinh thôn Mân Quang, xã Hòa Lân, huyện Hòa Vang (nay là khối phố Mân Quang, phường Hòa Quý, quận Ngũ Hành Sơn) ngày 16-3-1965. Lần đấu tranh này đã khiến kẻ thù khiếp sợ. Phong trào cách mạng ngùn ngụt lan tỏa khắp nơi.

Hòa Vang-chấm son trên bản đồ

Tháng 3-1966, đồng chí Mai Ngọc Châu (lúc này là Thường vụ Huyện ủy Hòa Vang, phụ trách Chính trị viên Huyện đội) được đưa ra Bắc chữa bệnh. Bác Hồ đã cho gọi ông đến báo cáo tình hình trong Nam. Cùng dự với Bác Hồ hôm đó có các đồng chí trong Bộ Chính trị. Giọng Quảng nghe chưa quen, đôi lúc Bác phải nhờ đồng chí Phan Triêm, quê ở Gò Nổi, lúc ấy là Phó trưởng ban Tổ chức Trung ương “phiên dịch”. Càng nghe, Bác càng thêm khâm phục quân dân Hòa Vang, huyện đầu tiên của Quảng Đà đánh Mỹ. Bác bảo, Huyện ủy và Đảng bộ Hòa Vang chiến đấu như thế là kiên cường và sáng tạo, rồi chỉ tay lên tấm bản đồ nói với ông Châu và các đồng chí có mặt: “Phải làm cho Hòa Vang trở thành một chấm son trên bản đồ của Tổ quốc!”. Đồng chí Lê Duẩn thì nói: “Hòa Vang trong Đảng. Củ Chi trên đài”, ai nấy đều vỗ tay hưởng ứng. Trong nhật ký của mình, ông Châu cũng đã ghi lại một ngày bên Bác, ăn cơm cùng Người với bao cảm xúc thiêng liêng. Ông viết những ngày sau đó: “Ba được đi dự hội nghị châu Mỹ-Latin lần thứ nhất tại Cuba, thời gian gần hai tháng. Ba đi nhiều nơi trên đất nước xinh đẹp này. Ba ở Liên Xô cũng dự nhiều cuộc họp quốc tế khác, được hai lần thăm Lăng Lênin vĩ đại”.

Nhiều cán bộ ở Hòa Vang thời ấy kể rằng, đồng chí Mai Ngọc Châu đã viết thư từ Hà Nội gửi về cho Huyện ủy báo cáo tình hình ra Bắc được gặp Bác Hồ và Bộ Chính trị, được đi nói chuyện với bạn bè thế giới về tình hình quân-dân Hòa Vang đánh Mỹ, ai cũng như được tiếp thêm sức mạnh để chiến đấu. Thư ấy không biết bây giờ có ai còn lưu giữ. Câu nói của Bác về Hòa Vang được lưu truyền chính là từ bức thư này.

leftcenterrightdel

Trang nhật ký của ông Mai Ngọc Châu. Ảnh: HÀ MY

Trong lần được gặp Bác Hồ, khi Bác hỏi thăm tình hình gia đình, ông Châu báo cáo về người vợ Nguyễn Thị Trung ở quê làm phó bí thư chi bộ, phụ trách thương binh xã. Vợ ông có thai đứa con đầu lòng, đau ba ngày không sinh được vì không có y tá nên con gái chết trong bụng. Đến nay, hai vợ chồng vẫn chưa có con. Nghe chuyện, Bác rơm rớm nước mắt, giao cho Ban Thống nhất Trung ương sắp xếp để người vợ trung kiên được ra Bắc đoàn tụ với chồng. Đây thực sự là niềm vinh dự của gia đình ông: “... Ba được Bác Hồ ôm hôn và cho thuốc lá. Bác hỏi thăm sức khỏe ba và má con. Bác bảo các bác cho má con ra...”. Ông cũng kể lại: “Lúc chia tay ba ra Bắc, má đưa ba chiếc nhẫn, vợ chồng gần nhau đã gửi trọn niềm yêu thương, nay xa cách em vẫn giữ tròn lời thề”. Cứ ngỡ vợ chồng sẽ như Ngưu Lang-Chức Nữ, vậy mà với tình thương của Bác Hồ, đầu năm 1969, vợ chồng ông đã được đoàn tụ. Sau khi con trai Mai Ngọc Hà ra đời (tháng 8-1970) thì vợ ông mắc phải bệnh suy thận mãn khi mới ngoài 30 tuổi. Ông vừa nuôi con vừa chăm vợ hết bệnh viện tỉnh đến Trung ương. May mắn là ông còn có những người thân trong họ hàng tập kết ra Bắc hỗ trợ phần nào. Vợ ông cầm cự được 10 tháng thì mất tại Hà Nội. Vốn đã thiếu cân, lại không có sữa mẹ từ lúc mới sinh, cậu con trai đau ốm quặt quẹo. Ông “gà trống nuôi con” đến năm 1973 thì gửi con ở nhà trẻ K90 để lên đường vào Nam. Ông viết nhật ký trong những ngày chuẩn bị tái ngũ, trở về quê hương chiến đấu, để lại cho con đề phòng có hy sinh thì sau này Mai Ngọc Hà sẽ biết được nguồn gốc của mình và tự hào về cha mẹ cùng những người đã cưu mang.

 Cuốn nhật ký sau khi ông Châu đi B cùng với nhiều giấy tờ khác được lưu giữ ở Ban Thống nhất Trung ương. Mãi sau này, khi cha đã mất, anh Hà mới nhận được kỷ vật của ông. Anh cho biết, dù có chữ không đọc được nữa nhưng anh sẽ giữ mãi như giữ hơi ấm của ba mẹ lúc sinh thời...

HỒNG VÂN