Ông là một trong những gương mặt thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ chống Mỹ, cứu nước. Với những đóng góp xuất sắc cho văn học, nhất là mảng đề tài chiến tranh cách mạng, ông đã vinh dự được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cùng nhiều phần thưởng văn chương cao quý khác.
Nguyễn Đức Mậu suốt đời mặc áo quân nhân. Thơ ông trước sau vẫn là thơ viết về người lính, viết cho người lính. Ông sinh ra tại một miền quê thuần nông (huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định), con người, sở thích cho đến bây giờ cũng còn rất “quê”. Ấy vậy mà ông lại có những bài thơ về “phố”, về chốn thị thành thật hay, thật tình và khiến nhiều người ở phố phải ghen tị!
Năm 2010 kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, nhiều tập thơ kỷ niệm sự kiện lớn này ra đời. Tập “Thơ tình Hà Nội”-một tập thơ quy tụ nhiều thế hệ làm thơ ở Hà Nội. Tên ông-Nguyễn Đức Mậu - có mặt bên cạnh những Vũ Quần Phương, Hữu Thỉnh, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Vân Long, Hồng Thanh Quang, Đoàn Tuấn và nhiều tên tuổi khác.
Bài thơ “Hà Nội chiều nay” của Nguyễn Đức Mậu được nhiều người biết đến với những câu mở đầu đẹp đến dịu dàng:
Hà Nội chiều nay nắng vừa đủ nắng
Gió cũng vừa đủ gió để rung cây
Mặt hồ rộng thực hư làn khói mỏng
Rượu bạn mời tôi uống cũng vừa say…
Khi được hỏi vì sao tác giả “Cây xanh đất lửa” lại viết được những câu thơ say đắm như vậy về Hà Nội, nhà thơ có lần nhớ lại: “Cách đây gần 30 năm, nhân được ra Hà Nội ít ngày, tôi tranh thủ tìm đến Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Một người mới cầm bút như tôi còn gì sung sướng hơn được tiếp xúc với các nhà văn, nhà thơ đi trước. Vậy mà khi tới cổng tòa soạn, tôi rụt rè, e sợ và luýnh quýnh như kẻ bị bắt mất hồn, bởi lẽ so với các nhà văn, nhà thơ ở đây, tôi chỉ là một cộng tác viên loại xoàng, có một đoạn văn ngắn, có đôi ba bài thơ mới được in. Để lấy lại bình tĩnh, tôi lượn đi lượn lại đôi ba vòng trước cổng và tôi có cảm giác như tất cả những người qua đường, cả ngôi nhà, hàng cây, cột đèn đang giễu cợt mình. Tôi ngước nhìn tấm biển Tạp chí Văn nghệ Quân đội bằng đồng lẩm bẩm đọc dòng chữ đầy trịnh trọng: Ai cần xin bấm chuông. Vẫn chưa hết hồi hộp, tôi kiễng chân, run run để ngón tay trỏ lên núm chuông... Phải tới hai, ba lần tôi mới dám ấn mạnh. Tiếng chuông reo vang. Và một lát sau, một người đàn ông cao lớn từ trong phòng khách đi ra mở cổng. Ông ta có khuôn mặt tinh anh, nói giọng Huế ấm áp, khúc chiết (sau tôi mới rõ đấy là nhà thơ Thanh Tịnh). Biết tôi là cộng tác viên ở xa, nhà thơ Thanh Tịnh dẫn tôi đi gặp các anh Xuân Sách, Văn Thảo Nguyên, Nhị Ca. “Được đằng chân lân đằng đầu”, tôi đánh liều gõ cửa các anh Vũ Cao, Từ Bích Hoàng. Chao ơi, đã đọc tác phẩm của các anh nhiều, tên tuổi các anh tôi đã từng ngưỡng mộ mà đến bây giờ tôi mới được tiếp kiến, hóa ra các anh cũng cởi mở, dễ gần chứ không cao vời, xa lạ như tôi tưởng. Tôi nhớ tiếng cười sảng khoái và nét mặt độ lượng của anh Vũ Cao. Khi nghe tôi đọc thơ, anh bảo: “Ông cứ chép ra giấy cho tôi đọc bằng mắt, chứ nghe giọng ông tôi nhận xét luôn, khó lắm. Khó lắm...”. Tôi nhớ đến cái dáng ngồi từ tốn, khuôn mặt phúc hậu của anh Từ Bích Hoàng, anh rót nước mời tôi và ân cần hỏi tôi về đời riêng, về nguyện vọng sáng tác... Buổi gặp gỡ với các anh trong Tạp chí Văn nghệ Quân đội tuy chốc lát ngắn ngủi nhưng đã gây cho tôi ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc mãi tới sau này…”.
Thì ra với Nguyễn Đức Mậu, Hà Nội thoạt tiên là một ngôi nhà, một số nhà cụ thể, nhà số 4 phố Lý Nam Đế, phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm, TP Hà Nội.
Sau cái lần đầu tiên đến ngôi nhà ấy, mấy năm sau, từ sư đoàn bộ binh, ông được chuyển về chính ngôi nhà mà ông đã có lần rụt rè đưa tay lên bấm chuông ấy:
Như vệt chớp rạch vào nỗi nhớ
Những con đường mười năm tôi qua
Lớp tuổi tính làm văn, viết báo
Về phố phường thương lắm cánh rừng xa
Kỷ niệm về một thời trận mạc bỗng chốc ùa về trong ông qua bài thơ ông viết. Ông kể: Bài thơ “Hà Nội chiều nay” tôi viết từ năm 1984. Có thể coi đây là lời giãi bày của mình với bạn bè, đồng nghiệp và những người anh mà tôi kính yêu, trân trọng:
Uống vừa say để mà nhìn lại
Con đường quen, mái phố nhấp nhô trời
Ở Hà Nội hơn mười năm rồi đó
Xin một chiều thong thả của riêng tôi.
Từ tro than thơ cháy lên ngọn lửa
Gương mặt bạn bè thấp thoáng một thời qua
Người ở Trường Sơn, nhớ người Hà Nội
Những câu thơ giăng kín dải ngân hà
Là người lính về ở ngôi nhà của những người lính viết văn-nhà số 4 “phố nhà binh”, ngôi nhà có hai cây đại già như một chứng nhân ghi nhận những số phận, những chia ly và những cuộc trở về:
… Nơi tôi ở một số nhà quen thuộc
Tóc em dài, buông xõa xuống mùa thu
Nhiều lúc khát khoảng trời xóm mạc
Chiếc lá vàng như máu xót của vần thơ
Nơi tôi ở hoa đại rơi trắng đất
Có ai nhìn hoa nghĩ tóc bạc trên đầu
Cái hòm thư mới một lần sơn lại
Bác gác cổng già năm trước, giờ đâu...?
Nơi tôi ở vắng Thâm Tâm, Trần Đăng, Thôi Hữu, Nguyễn Thi... Lớp nhà thơ, nhà văn một thời đi kháng chiến. Trang bản thảo nằm trong ba lô, những nhân vật, câu thơ là mẫu quặng. Căn hầm thay phòng viết, ngọn đèn thắp bằng nhựa cây cháy sáng mặt trời (Những nhà thơ, nhà văn ăn khẩu phần lính trận, ngủ gối đầu rễ cây, bao gạo. Đường kháng chiến hiểm nghèo đèo dốc. Đường văn chương bạc tóc đêm dài. Cây bút và khẩu súng. Các anh quên mình đã có một thời trai).
    |
 |
Trang bìa tập “Thơ tình Hà Nội”. Ảnh: VĨNH NGÔ |
Những trận sốt rừng, những viên đạn giặc đã tràn vào trang viết dở dang. Nhà văn hy sinh, nhường khát vọng đời mình cho nhân vật. Máu thấm đất, máu chảy vào trang viết, máu thay cho đoạn kết không lời. Nhà thơ hy sinh như ngọn lửa cháy hết mình để tự hóa thân. Trên vuông đất bia khô cằn đá sỏi, những câu chữ như hạt cây sót lại, ngôn ngữ cỏ xanh tự chắp nên vần.
Cây đại già là một chứng nhân/ Ngôi nhà các anh giờ chúng tôi đến ở/ Căn phòng cũ mấy lần thay ổ khóa/ Lớp nhà thơ mang áo lính nhiều thêm…
10 năm ở Hà Nội, thành công dân Hà Nội với Nguyễn Đức Mậu không chỉ làm cho ông sống lại một thời trận mạc máu lửa cùng những mất mát hy sinh với tình đồng chí, đồng đội thắm nồng: Ở Hà Nội mười năm tôi có được/ Những buồn vui dành dụm cho mình mà còn cho ông thấy một Hà Nội hiên ngang, một Hà Nội thanh lịch, một Hà Nội mộng mơ:
Ơi con đường vừa xa, vừa gần
Bao nhiêu người đi xe, bao nhiêu người đi bộ
Một dãy phố lặng yên và ồn ã
Những ngôi nhà cao thấp liền nhau
Rồi Hà Nội cho ông gặp lại những người bạn chiến đấu năm xưa, những bạn viết, bạn đọc mới:
Bao bè bạn, bao số nhà tôi nhớ
Công việc nhiều ít gặp, vẫn thương nhau
Thơ và cuộc đời mênh mang nhường ấy
Tôi đam mê như vẫn thuở ban đầu
Hà Nội trong thơ Nguyễn Đức Mậu như một trường đoạn phim đậm màu đồng hiện, mơ đấy mà thực đấy, như tỉnh lại như say:
Hà Nội chiều nay mùa xuân hay mùa hạ
Tôi bình tâm hay nôn nóng điều gì?
Nhịp thời gian vội vàng gõ cửa
Những chân trời mới lạ gọi tôi đi
Cốc rượu mười năm tôi chưa uống cạn
Men cất từ trời đất cứ đầy thêm
Hà Nội chiều nay, tôi và bạn
Một chút men say, bấy nỗi niềm.
“Hà Nội chiều nay” là Hà Nội xưa cũ, vơi đầy kỷ niệm, kiêu sa mà hiện đại nhưng cũng là cả “bầu tâm sự” của nhà thơ “quê”, nhà thơ lính Nguyễn Đức Mậu. Tôi nói vậy không biết có đúng hay không?
Thập Tam trại, mùa thu năm 2019
NGÔ VĨNH BÌNH