Do từng học nhiều năm ở Trung Quốc nên theo yêu cầu của “ông chủ lớn”, tháng 6-1967, Tổng cục Hậu cần điều động tôi vào để giúp ông giao dịch với các thương gia Hoa kiều ở Campuchia. Giai đoạn này, do thiếu người, tôi được bố trí kiêm Đại đội trưởng K6, đơn vị đầu mối trực tiếp nhận và mua hàng của các thương gia theo sự chỉ đạo của “ông chủ lớn”, đóng ở bản Xen Kẹo nằm bên bờ sông Sekong của huyện Sanamxay, tỉnh Attapeu (Lào), giáp biên giới với tỉnh Stung Treng (Campuchia).

Hàng K6 tiếp nhận có quãng đường khá xa: Hàng viện trợ lương thực, thực phẩm, thuốc men, xăng dầu... của các nước xã hội chủ nghĩa hoặc hàng từ miền Bắc chở vào bằng tàu thủy cập cảng Sihanoukville. Từ đây, ta thuê phương tiện của dân sở tại vận chuyển đến các hướng chiến trường Nam Bộ, riêng đường C4 thì thuê ô tô vận tải chuyển đến Kratie, một tỉnh phía Đông Campuchia với quãng đường hơn 600km. Từ đây, chúng tôi tiếp tục thuê ca nô của dân vận chuyển lên K6 với quãng đường 160km theo sông Sekong. Sau khi hoàn thành giao hàng cho K6, các chủ phương tiện và thương gia được giao một giấy biên nhận để về nơi nhận hàng thanh toán tiền vận chuyển, tiền hàng hóa đã bán cho K6. Với phương thức vận chuyển này, hằng năm, K6 đã nhận khoảng 5.000 tấn gạo, hàng chục tấn xăng dầu và nhu yếu phẩm cung cấp cho chiến trường Tây Nguyên.

Còn đạn ĐKB (đạn pháo phản lực) của Liên Xô viện trợ từ miền Bắc chở vào theo Đường Hồ Chí Minh cung cấp cho chiến trường Nam Bộ, chúng tôi vận chuyển bằng ca nô tập kết ở Stung Treng, một tỉnh vùng Đông Bắc Campuchia. Từ đây, hàng được người của Campuchia áp tải từng xe đi giao cho các hướng chiến trường Nam Bộ. Việc vận chuyển vũ khí quá cảnh được nhà cầm quyền kiểm soát rất chặt chẽ, vì lúc đó họ sợ chúng ta viện trợ cho Khmer Đỏ.

leftcenterrightdel
 Trung úy, Đại đội trưởng Đặng Doãn Duy ở một bến tiếp nhận hàng của K6 bên sông Sekong, năm 1968. Ảnh: ANH NHÀN

Đơn vị K6 chúng tôi ở trên địa bàn chưa phải là trọng điểm đánh phá của địch như trên tuyến Đường Hồ Chí Minh, nhưng là vùng nguy hiểm số một Đông Dương về sốt rét. Trước đây, Pháp cũng từng xây dựng ở đây một đồn trú, nhưng đành từ bỏ vì binh lính bị sốt rét hành hạ. Nhiệm vụ của K6 là tiếp nhận và xuất hàng trong cả hai mùa mưa-nắng, quân số chỉ 60 người, trừ bộ phận thống kê, phục vụ, còn lại là bốc, vác hàng. Bao gạo nặng 100kg hai người khiêng, người đi sau vít hai tai bao gạo đẩy người đi trước vượt dốc nhanh để thắng sức ỳ, sức nặng. Quần áo ai nấy đều ướt sũng mồ hôi. Công việc đơn giản, đơn điệu nhưng gian khổ, vất vả. Có hôm, quân số ốm, sốt rét chiếm quá nửa đơn vị, số anh em còn lại phải gồng mình bốc hết hàng trước khi trời sáng để ca nô kịp quay về khu vực an toàn. Đột xuất có đêm, chúng tôi phải xuất hơn 150 tấn hàng và tiếp nhận hơn 250 tấn hàng do dân chở tới. Với quãng đường từ thuyền, ca nô lên kho 20m, độ dốc cao, bình quân mỗi người phải chuyển 10 tấn hàng trong một đêm. Công việc đêm tiếp đêm, mùa tiếp mùa, năm tiếp năm đã để lại trên thân thể anh em nhiều dị tật, phần lớn bị lệch cột sống, nhiều người vai nọ thấp hơn vai kia. Đó là một sự chịu đựng lớn với niềm tin chiến thắng ở các chiến trường.

Với cán bộ, chiến sĩ K6, liêm khiết là tiêu chuẩn hàng đầu. Mỗi đêm, chúng tôi tổ chức 5 đến 6 điểm tiếp nhận hàng cách xa nhau. Số lượng, trọng lượng hàng hóa tiếp nhận hoặc mua của các thương gia đều do anh em thống kê trực tiếp ghi vào phiếu mà tôi đã ký sẵn. Trong hoàn cảnh sinh hoạt thiếu thốn mọi bề, nhưng không ai tơ hào dù chỉ một chút. Cuối năm kết sổ, con số giữa các bên đều khớp với nhau rành mạch. Con đường C4 và kho K6 đã chi viện cho chiến trường rất an toàn, đạt hiệu suất cao, là kết quả của việc vận dụng sáng tạo chính sách ngoại giao của Đảng ta. Việc vận chuyển theo con đường này cũng có thời gian bị gián đoạn do biến động về chính trị của các bên, nhưng đều được khai thông. Cho đến tháng 3-1970 thì con đường C4 kết thúc...

Đại tá ĐẶNG DOÃN DUY - Nguyên Chỉ huy trưởng Cơ quan Thường trực Cục Quản lý Xe-Máy (Tổng cục Kỹ thuật) tại TP Hồ Chí Minh