QĐND - Ai mới tiếp xúc với Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân Phùng Thế Tài cứ nghĩ tính ông nóng nảy thì việc gì cũng muốn giải quyết tắp lự. Và chính Bác Hồ cũng đã nhiều lần rèn tính nóng nảy của ông. Ông kể, có lần, Bác để cho ông khát đến khô cả họng mới rót cho một cốc nước sôi. Bác bảo:
- Chú uống ngay đi.
Ông thưa:
- Nước còn nóng lắm. Cháu không uống được ạ.
Bác nói:
- Thế nên việc gì cũng phải kiên trì, phải bình tĩnh mới giải quyết được. Việc càng khó, càng phải kiên trì, bình tĩnh.
Nhờ được Bác rèn luyện nên mặc dù tính nóng nhưng khi gặp việc khó, ông rất bình tĩnh và rất yêu thích người lính dũng cảm, bình tĩnh.
Tôi còn nhớ mãi cái lần, trận địa cao xạ pháo của chúng tôi cơ động lên trận địa Đình Hương ở núi Ngọc, Hàm Rồng, Thanh Hóa năm 1965.
Cả nửa tháng chiến đấu vất vả, hết ở trận địa Đông Tác, đánh nhau với máy bay Mỹ ngày 3, 4-4-1965 lại cơ động sang trận địa Thọ Hạc, trước cửa nhà máy gạch rồi ngược lên núi Ngọc, Đông Sơn. Chao ơi, cái thứ đất sỏi ở núi Ngọc sao nó rắn đến thế. Mỗi nhát cuốc, mũi xà beng đâm vào nó đều tóe lửa. Chúng tôi cùng nhân dân Đông Sơn thay nhau đào, cuốc suốt đêm, phồng hết cả gan bàn tay mà đến tảng sáng cái công sự vẫn nông choèn. Bờ công sự thì mỏng mảnh chưa kịp tưới nước. Mỗi trận gió to ào qua, bụi bay mù mịt. Nhưng sáng rồi, chúng tôi vẫn phải kéo pháo, chuyển đạn vào công sự để sẵn sàng chiến đấu.
Trời nắng hè nóng nực, oi bức, chói chang quá. Lá ngụy trang vừa cắm xong đã quăn khô như vỏ bào.
Giữa lúc đó, Thượng tướng, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng có Tư lệnh Quân chủng Phùng Thế Tài tháp tùng đến thăm đơn vị.
Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng hỏi:
- Công sự thế này đã bảo đảm chiến đấu chưa?
Chúng tôi lúng túng. Khẩu đội trưởng Nguyễn Văn Đỗ vốn rất bình tĩnh, dũng cảm, mưu trí qua các trận đánh ở Pa Khe, Noọng Héc, Nậm Mật, Thượng Lào đến những trận đánh máy bay Mỹ bảo vệ cầu Hàm Rồng những ngày vừa qua, đứng lặng, không nói một câu. Biết trả lời Tổng Tham mưu trưởng như thế nào bây giờ? Đêm qua, chúng tôi đã cố gắng đến kiệt sức rồi. Công sự chỉ được có thế thôi. Thật là lực bất tòng tâm, bất khả kháng. Giữa lúc ấy, Tư lệnh Quân chủng trả lời thay chúng tôi:
- Thưa anh, bảo đảm ạ.
Thượng tướng cười tủm tỉm:
- Mình cảm thấy vẫn còn nông. Bờ công sự chưa được chắc. Khi chiến đấu, hơi đạn đầu nòng pháo sẽ khiến đất bụi bay mù mịt. Các đồng chí nên đào sâu thêm và tưới nước lên bờ công sự.
Dứt lời, Tổng Tham mưu trưởng đi luôn sang khẩu đội khác. Chúng tôi thở phào. Khẩu đội trưởng Đỗ bảo:
- Đêm nay, chúng ta lại phải ra tay quyến chiến với đám đất sỏi này.
Khi Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng lên xe, Tư lệnh Phùng Thế Tài quay trở lại khẩu đội chúng tôi. Ông mắng luôn:
- Chúng mày đào đắp công sự thế này thì chiến đấu thế nào được. Thế mà chúng mày dám báo cáo Thượng tướng, Tổng Tham mưu trưởng “bảo đảm chiến đấu ạ”. Thằng nào, thằng nào báo cáo? Thằng này phải không? - Ông chỉ Khẩu đội trưởng Nguyễn Văn Đỗ, tay vẫn cầm lá cờ đỏ chỉ huy.
Đỗ vốn thông minh và bình tĩnh. Có lần anh bảo: “Đến máy bay Mỹ nhằm thẳng trận địa mình lao xuống cắt bom tao còn chả sợ. Tao vẫn chỉ huy khẩu đội mình bắn cho nó tới số đấy thôi”.
Tư lệnh Phùng Thế Tài sốt ruột, chỉ Khẩu đội trưởng Đỗ hỏi dồn dập:
- Thằng nào? Thằng nào?
Khẩu đội trưởng Đỗ đứng nghiêm, nói:
- Báo cáo thủ trưởng, thằng... thằng...
- Thằng nào? Thằng nào, nói luôn đi.
- Tôi nói thủ trưởng không được mắng.
- Được. Tao tha cho, không mắng.
- Thằng... thằng...
- Nói luôn đi. Sao ấp úng thế?
Bấy giờ, Đỗ mới nói rõ ràng mạch lạc:
- Là Tư lệnh Phùng Thế Tài ạ!
- Ơ, cái thằng này. Tối nay, chúng mày cố gắng đào đắp thêm công sự cho chắc chắn nhé! - Dứt lời, ông bắt tay Đỗ rất chặt.
Thấy Tư lệnh Quân chủng quát mắng ở khẩu đội chúng tôi, Chính trị viên Nguyễn Văn Tuy và Đại đội trưởng Đàm Quốc Đoàn vội đến. Lúc ấy, Tư lệnh vừa ra đến cửa hầm pháo. Ông bắt tay tạm biệt đại đội trưởng và chính trị viên. Ông bảo:
- Này, cái cậu khẩu đội trưởng khẩu đội này khá lắm. Tao vừa truy hỏi, thử thách hắn. Hắn rất gan lì và bình tĩnh. Đại đội các cậu phải có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo hắn thành người chỉ huy giỏi.
Chúng tôi cứ nghĩ, ông nói vậy rồi quên. Ai ngờ tháng Chạp năm sau, năm 1966, ông trở lại đại đội chúng tôi ở Bắc Giang. Ông đến khẩu đội chúng tôi, tìm Đỗ không thấy. Ông hỏi vài chú lính mới đang vác đạn. Chả ai biết Khẩu đội trưởng Đỗ. Vậy mà ông chả hỏi tôi, pháo thủ số 5, đứng sừng sững trên mâm pháo. Ông về sở chỉ huy, hỏi Đại đội trưởng Đàm Quốc Đoàn:
- Này, cậu. Cái cậu khẩu đội trưởng đẹp giai, có cái đuôi mắt rất dài, bình tĩnh, thông minh và trung thực ấy đâu? Cho đi học sĩ quan rồi à?
Đại đội trưởng Đàm Quốc Đoàn thưa:
- Đấy là Khẩu đội trưởng Nguyễn Văn Đỗ ạ. Vừa rồi, đồng chí ấy được Bác Hồ thưởng Huân chương Chiến công hạng nhì vì có thành tích xuất sắc trong chiến đấu. Chúng tôi được lệnh chuẩn bị cho cậu ấy đi học cấp chỉ huy...
Anh em ở Bộ tư lệnh Quân chủng có nhiều thời gian tiếp xúc với Tư lệnh Phùng Thế Tài, bảo, ông nóng tính nhưng rất vui chuyện. Có lần ông kể: “Cái dịp Bác Hồ đón khách sang thăm nước ta. Mới hòa bình được mấy năm, nước ta còn nghèo. Cơ sở vật chất thiếu thốn lắm. Máy bay hạ cánh xuống sân bay Gia Lâm. Ông cụ đến sớm chờ khách và kiểm tra công việc chuẩn bị đón khách như thế nào. Đột nhiên, ông cụ hỏi: “Chú Tài, thang máy bay cho khách xuống đâu?”. “Thưa Bác, để cháu lo ạ”. Bác nói vui: “Chắc chú Tài có sáng kiến cho mấy ông khách nhảy dù”. Ở hoàn cảnh người khác, không biết họ có bấn xúc xích không? Chứ tao rất bình tĩnh. Bao nhiêu năm nhờ đi phục vụ Bác, được Bác dạy dỗ nên tao đã rèn luyện cho mình được thói quen bình tĩnh. Tao đảo mắt nhìn khắp một lượt. Thật may, tao phát hiện ở gần nhà ga có một chồng hòm đạn che vải bạt. Tao hỏi thủ kho, trong hòm có đạn không. Nó bảo: “Chỉ có vỏ thôi ạ”. Tao nói: “Thế thì tốt”. Tao sai người gọi tất cả chiến sĩ đến, bảo quân nhu sân bay mở kho lấy ra vài chục bộ quần áo mới. Rồi mũ kê-pi, găng tay trắng, giày đen mang cả ra. Tao bảo lính mặc quần áo mới, đi giày đen, đội mũ kê-pi chờ lệnh. Có cậu còn hỏi: “Báo cáo thủ trưởng, còn tất tay trắng ạ?”. Tao bảo: “Để sẵn đấy, dùng sau”. Để làm gì chưa ai biết ý tao. Ông cụ đọc ngay được gan ruột tao, cứ tủm tỉm cười. Máy bay hạ cánh, tao lệnh cho thông tin không được mở cửa vội. Tao sai lính vác hòm đạn xếp ở cửa máy bay thành bậc lên xuống rồi phủ thảm đỏ lên, đúng với tầm cỡ đón nguyên thủ quốc gia. Xong đâu đó, tao bảo lính đi găng tay trắng vào, đứng theo các bậc lên xuống sát hai bên. Hàng bên trái giữ bậc bằng tay phải. Hàng bên phải, tay trái giữ bậc còn tay phải giơ lên chào. Bấy giờ, cửa máy bay mới được mở. Ông cụ hài lòng lắm”.
Vào lúc vui, Tư lệnh hay mở lòng mình. Tư lệnh kể chơi chơi nhưng chuyện nào cũng có mục đích cả. Theo lời ông, ngày 3-8, ông nhận lệnh của Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vào Vinh chuẩn bị chiến đấu. Quân ủy Trung ương nhận định, Giôn-xơn đã gây hấn ở Vịnh Bắc Bộ. Nhất định chúng sẽ cho không quân ném bom đánh Vinh và Hồng Quảng để thăm dò lực lượng ta và dư luận nhân dân thế giới. Tổng Tham mưu trưởng bảo Phùng Thế Tài:
- Anh đi ngay Nghệ An kiểm tra bộ đội cao xạ sẵn sàng chiến đấu. Anh cũng cử một đồng chí phó tư lệnh đi Hồng Quảng luôn nhé (thời ấy, tỉnh Hải Ninh và Hồng Quảng chưa sáp nhập thành Quảng Ninh).
Công việc nhiều, Tư lệnh Phùng Thế Tài quên mất! Tối 4-8, ông còn chén một bữa rượu thịt chó, bên anh em Văn phòng mời. Đó là món ông khoái khẩu nhất. Ông về nhà ngủ thiếp đi. Quãng chín giờ tối, có tiếng trợ lý tham mưu trực tác chiến sang nhà ông gõ cửa rầm rầm. Ông tỉnh dậy, hỏi:
- Cái gì thế?
- Báo cáo Tư lệnh, tôi quay điện thoại, không thấy Tư lệnh cầm máy, trên Bộ tổng, anh Tuấn (tức Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng) hỏi anh đi Nghệ An chuẩn bị chiến đấu chưa?
Ông giật bắn người, còn hơn lỡ tay chạm vào mạch điện 110V. Nhưng ông lấy lại bình tĩnh ngay. Ông bảo:
- Bỏ mẹ rồi. Tao quên. Điều ngay hai xe tốt cho tao đi Vinh và một xe đi Hồng Quảng.
Dọc đường, ông nhắc lái xe, cậu cứ bình tĩnh, giữ vững tốc độ. Vội vàng mà va quệt là hỏng việc đấy nhé.
Ông vào đến Vinh thì trời vừa sáng. Ông cùng các cán bộ Trung đoàn 218 kiểm tra chiến đấu và nhắc nhở bộ đội vào trực ban cấp 1. Ông bảo:
- Thế nào máy bay Mỹ nó cũng mò vào đánh Vinh đấy. Chúng mày cử ngay trợ lý đi các trận địa kiểm tra tham số chiến đấu và xem lính pháo nó trực chiến có nghiêm không?
Dứt lời ông cũng lên xe đến một trận địa pháo.
Quả nhiên hôm đó, máy bay Mỹ đánh vào Vinh. Nhưng đánh muộn. Ăn cơm trưa xong nó mới đánh. Còn dư khối thời gian chuẩn bị và chờ đợi. Trận 5-8, địch bay thấp từ biển vào. Binh chủng Ra-đa không bắt được mục tiêu nhưng cao xạ đã sẵn sàng chiến đấu nên cao xạ thành Vinh thắng lợi giòn giã. Cao xạ Hồng Quảng cũng thắng lớn, bắt sống Trung úy phi công An-va-rét. Anh em đánh thắng, Quân chủng được Bác Hồ khen thưởng. Hôm mừng công, trao thưởng, Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân Phùng Thế Tài và Tư lệnh Quân chủng Hải quân Nguyễn Bá Phát được thay mặt hai quân chủng nhận huân chương và được chụp ảnh với Bác Hồ. Tấm ảnh thật đẹp. Ba Bác cháu cười rạng rỡ. Nụ cười của người chiến thắng, người lạc quan. Sau đó, được nhà xuất bản in, phát hành ra toàn quốc. Lính ta tấm tắc:
- Tấm ảnh đẹp quá. Đẹp có một không hai ạ!
Tư lệnh bảo:
- Ảnh Bác bao giờ chả đẹp. Tao và anh Phát được dựa bóng Người.
Lát sau, ông nói tiếp:
- Chúng mày phải nhớ, dù hoàn cảnh nào cũng phải bình tĩnh. Phải thật bình tĩnh mới thông minh, nhanh nhẹn, quyết đoán, biến cái khó tưởng như bất khả kháng còn dễ như không. Chuyện to thành chuyện nhỏ, rõ chưa?
DƯƠNG DUY NGỮ