Những năm tháng sống, chiến đấu, công tác trong đội hình Sư đoàn 470 luôn là niềm tự hào của các cựu chiến binh (CCB) để kể lại cho thế hệ trẻ hôm nay trong mỗi lần gặp mặt. Đó không chỉ là những kỷ niệm sinh tử với kẻ thù mà còn là câu chuyện đậm tình nhân ái của những người lính Trường Sơn. Việc nhận hai bé trai song sinh người Lào làm con nuôi cuối năm 1973 là một ví dụ. 

Hai bé trai năm nào hiện đã là những người đàn ông trưởng thành, vẫn cùng gia đình sống tại Việt Nam. Người anh tên là Đỗ Thế Quang, con nuôi nguyên Chính ủy Viện 48, Sư đoàn 470 Đỗ Thế Nhung, quê ở Thái Bình. Người em tên là Lâm Quang Trung, con nuôi CCB Lâm Văn Chiến, quê Ninh Bình, nguyên Chủ nhiệm Khoa Nội của Viện 48. 

leftcenterrightdel

Sư đoàn 470 là một trong các đơn vị cấp sư đoàn đầu tiên của tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn, trực tiếp vận chuyển phục vụ các chiến trường Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia, Tây Nguyên và Nam Bộ. Ảnh: XUÂN DẬU.

Theo lời kể của các CCB, ngày 19-12-1973, cán bộ, chiến sĩ Đội điều trị Binh trạm 37, Bộ tư lệnh Trường Sơn đang chuẩn bị ăn cơm trưa thì nhận lệnh đến bản Nọi, xã Phăng Đen, huyện Xaysetha, tỉnh Attapeu cấp cứu một cặp bé trai song sinh của bộ đội Pathet Lào. Tôi cũng xin lý giải thêm, thời kỳ này, các binh trạm của Trường Sơn đã chuyển sang trung đoàn, nhưng riêng các đơn vị ở nam sông Bạc trở vào vẫn giữ nguyên, chưa là trung đoàn. Khi đội đến nơi, hai cháu được đưa ra, chuẩn bị chôn cùng mẹ theo phong tục người Lào. Hai cháu lúc này cơ thể tím tái và thoi thóp thở. Tổ cấp cứu khẩn trương cứu và chăm sóc hai cháu trai, một cháu nặng 1,2kg và một cháu nặng 1,5kg. Đồng thời, tổ xin ý kiến của cấp trên đề nghị đưa hai cháu về đội điều trị chăm sóc.

Đơn vị phân công: Bố đỡ đầu là Trung úy, bác sĩ Bùi Xuân Quang-người miền Nam. Mẹ nuôi là Trung sĩ, y tá Phan Thị Thanh Huyền và Trung sĩ, y tá Nguyễn Thị Minh Đồng-quê Thanh Hóa. Trước khi giao các con cho đơn vị, bố hai cháu là anh Thạo Bun Ma khóc nói: “Cảm ơn các đồng chí bộ đội Việt Nam đã rất nhiệt tình giúp đỡ. Mẹ cháu đã mất còn tôi đi chiến đấu nay ở chiến trường này, mai chiến trường khác, gia đình lại chẳng còn ai thân thích. Nếu tôi đem các cháu về thì chúng nó cũng chết mất thôi. Trăm sự, vạn sự nhờ bộ đội Việt Nam chăm sóc, nuôi nấng hộ, ơn này tôi không bao giờ quên!”.

Với sự quan tâm chăm sóc tận tình của các y sĩ, bác sĩ, của hai cô y tá và toàn đơn vị, ngày qua ngày các cháu đã cứng cáp hơn. Thấy các cháu ngoan, chúm chím cười, các cô chú trong binh trạm ai cũng vui. Nhớ lúc sinh thời Bác Hồ đã nói: “Việt-Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”, vì vậy, cán bộ của Đội điều trị Binh trạm 37 quyết định lấy họ Hồ của Bác để đặt cho các cháu tên là Hồ Thanh Ba và Hồ Thanh Bảy (Ba, Bảy gộp lại là tên Binh trạm 37). Ngày 21-2-1974, bố đẻ Thạo Bun Ma đã viết giấy bảo đảm (có dấu xác nhận của xã Phăng Đen và chứng nhận của Ủy ban Hành chính huyện Xaysetha, tỉnh Attapeu) cho bộ đội Việt Nam ở Binh trạm 37 nuôi hai cháu. Binh trạm 37 dùng quyển lý lịch mẫu, khai lý lịch cho hai cháu, do Thiếu tá Hồ Tấn Mạnh-Phó chính ủy ký xác nhận.

Do khí hậu ẩm thấp, các cháu hay ốm đau, nhiều khi bị bệnh mà thuốc Tây chữa mãi không khỏi, phải tìm thuốc Nam trong rừng. Tuy vất vả, gian khổ nhưng các cô, các chú của đội điều trị luôn dành cho các cháu sự quan tâm, thương yêu nhất. Tháng 3-1974, Binh trạm 37 nhận nhiệm vụ đi làm đường ống xăng dầu nên bàn giao cho hai cháu Viện 48. Viện 48 phân công y tá Hoàng Thị Cúc, quê Hoằng Hóa, Thanh Hóa chăm sóc cháu Ba. Y tá Nguyễn Thị Thập, quê Đan Phượng, Hà Tây (nay thuộc Hà Nội) chăm sóc cháu Bảy. Cả hai cô chưa có gia đình, chưa có kinh nghiệm chăm nuôi trẻ, nhưng với tấm lòng của người phụ nữ Việt Nam, các cô đã trở thành những người mẹ dành trọn tình thương yêu cho hai cháu. Các bác, các cô, các chú ở viện cũng thường xuyên bồng bế nâng niu. Ai cũng xem các cháu như ruột thịt của mình. Giữa rừng già Trường Sơn, trong đạn bom, được nghe tiếng trẻ thơ là niềm vui chung của cả đơn vị.

Tháng 4-1974, cục diện chiến trường thay đổi. Viện 48 cũng di chuyển phục vụ chiến dịch lớn. Tình thế khẩn trương, không thể mang các cháu đi theo được. Ban chỉ huy Viện 48 điện báo cáo xin ý kiến chỉ đạo, cấp trên chỉ thị nếu tình huống khó khăn quá thì trả các cháu cho phía bạn. Thời gian gấp, quan trọng hơn là các cháu còn quá bé, nếu chăm sóc không khéo có thể nguy hiểm đến tính mạng. Bởi vậy, sau nhiều lần thảo luận, chỉ huy đơn vị đề nghị chuyển các cháu ra Bắc.
 
Cấp trên nhất trí, nhưng ai bảo lãnh các cháu, ra Bắc rồi giao cho ai? Sau một đêm suy nghĩ, Phó chính ủy Đỗ Thế Nhung xin nhận cháu Ba làm con nuôi và bàn với Chủ nhiệm Khoa Nội, bác sĩ Lâm Văn Chiến nhận cháu Bảy làm con nuôi. Chỉ huy đơn vị mừng quá, báo cáo với cấp trên và cho phép điều động ngay một xe ô tô chở hai ông bố nuôi, cùng hai cô y tá, một quân y sĩ đi kèm để chăm sóc và giải quyết mọi tình huống bất trắc có thể xảy ra trên suốt cả chặng đường dài ra Bắc. Sau mấy ngày đêm vật lộn trên các cung đường, đoàn về được đến Ninh Bình và Thái Bình, quê hương của hai ông bố nuôi, làm mọi thủ tục giấy tờ, khai sinh lại cho các cháu, bàn giao cho hai gia đình và chính quyền địa phương. Hai bố nuôi đặt lại tên cho cháu theo họ của mình: Đỗ Thế Quang con nuôi ông Đỗ Thế Nhung; Lâm Quang Trung con nuôi ông Lâm Văn Chiến. Từ đó, hai cháu mang quốc tịch Việt Nam, lớn lên, trưởng thành trong tình thương yêu của nghĩa tình son sắt, thủy chung Việt-Lào.
 
Hiện nay, cả Quang và Trung đều có vợ con đề huề, nhà cửa khang trang. Ông Đỗ Thế Nhung sinh năm 1934, vợ là Phạm Thị Khoa sinh năm 1934; ông Lâm Văn Chiến sinh năm 1937, vợ Nguyễn Thị Đào sinh năm 1938 vẫn mạnh khỏe, hạnh phúc. 
 
ĐẬU XUÂN TƯỜNG - Chủ tịch Hội Truyền thống Trường Sơn Sư đoàn 470