QĐND - Khi tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp của Đại tướng Lê Trọng Tấn, chúng tôi thấy rằng, bên cạnh tài năng quân sự lỗi lạc thì tấm lòng nhân nghĩa, trái tim giàu tình yêu thương của ông đã khiến ông sống mãi trong tâm tưởng của đồng chí, đồng đội và nhân dân. Thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại, nguyên Phó cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng Tham mưu, người từng có thời gian dài làm việc dưới quyền của Đại tướng Lê Trọng Tấn nên ngoài những hiểu biết về tài thao lược của Đại tướng, trong ông còn nhiều kỷ niệm sâu sắc về một vị tướng có tấm lòng nhân nghĩa. Những kỷ niệm mà như ông nói chỉ là những chuyện nhỏ, không thể nói lên hết toàn bộ tài năng, đức độ của người thầy, người thủ trưởng mà ông vô cùng yêu kính.

Mùa xuân năm 1980, tôi được lệnh tạm bàn giao công tác đang phụ trách, chuyển sang làm Tổ trưởng Tổ soạn thảo bản tổng kết cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Chúng tôi làm việc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn.

Đến mùa hè năm 1980, chúng tôi hoàn thành bản dự thảo lần một và chờ xin ý kiến anh Tấn để chỉnh sửa. Đang chờ Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu sắp xếp thời gian thì chúng tôi nhận được lệnh xuống làm việc tại Đồ Sơn. Tới nơi mới biết anh Tấn bị mệt sau 4 năm vất vả từ biên giới Tây Nam rồi lại ra phía Bắc, đang nghỉ để điều dưỡng tại đó. Anh tranh thủ thời gian vừa nghỉ vừa kết hợp thông qua bản tổng kết. Mặt khác, tôi biết ý của anh là muốn cho chúng tôi được nghỉ ngơi dưỡng sức sau nhiều năm làm việc căng thẳng.

Thiếu tướng Lê Trọng Tấn - Phó tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam tại căn cứ, năm 1965.

Cả gia đình anh và chúng tôi đều ở chung một ngôi nhà hai tầng do bộ đội công binh xây dựng, đơn giản song khá thoáng mát. Trực tiếp chỉ đạo phục vụ của ngôi nhà là một đồng chí thượng úy tuổi xấp xỉ ba mươi.

Vào đầu giờ một buổi chiều, chúng tôi đang ngồi đọc báo, chơi cờ, anh Tấn nằm trên chiếc võng Trường Sơn ở khu vườn trước mặt thì đồng chí thượng úy phục vụ nhà khách dẫn một trung úy trẻ đến, rụt rè xin gặp trực tiếp anh Tấn. Anh vui vẻ ngồi dậy tiếp và nói người lấy ghế mời hai đồng chí đó ngồi, song cả hai vẫn cứ đứng. Đồng chí thượng úy báo cáo là mới nhận được tin vợ bị bệnh nặng, nguy hiểm đến tính mạng, đang phải đi cấp cứu, hai con ở nhà còn nhỏ nên thủ trưởng đoàn an dưỡng cho phép nghỉ để giải quyết việc gia đình và cử một đồng chí trung úy thay thế, nay anh dẫn đến để vừa xin phép nghỉ, vừa giới thiệu người thay mình.

Anh Tấn đồng ý ngay và ân cần hỏi thăm tình hình bệnh tật của vợ đồng chí thượng úy. Được biết anh ấy quê ở Thái Bình, vợ làm ruộng, có hai con. Anh vừa nhận được tin ở nhà báo lên vợ anh bị đau bụng dữ dội, đã đưa lên bệnh viện huyện cấp cứu, song chưa rõ bệnh gì, tình hình rất nguy cấp. Khi anh Tấn hỏi về nhà bằng cách nào, anh chỉ chiếc xe đạp công mượn được, đang dựng ở tường và định đi suốt đêm theo Quốc lộ 10 ven biển để về bằng được.

Ôi, Quốc lộ 10 của thập niên 1980 thì chúng tôi ai cũng rõ. Đó là con đường làm từ thời Pháp, đến Toàn quốc kháng chiến thì bị xẻ nát khi ta thực hiện “tiêu thổ kháng chiến”. Sau đó con đường có được sửa lại nhưng thời đánh Mỹ chẳng được bảo dưỡng tốt nên không những chỉ toàn “ổ gà” mà còn có nhiều “ổ trâu”, “ổ voi”. Hơn nữa đi đường này còn phải qua nhiều phà, cuối tháng tối mù, xe thì cọc cạch không đèn, không biết anh ta làm thế nào để về kịp Thái Bình trong đêm.

Anh chàng thượng úy được sự cho phép của anh Tấn, nhấp nhổm định chào xin đi nhưng anh Tấn ra hiệu chờ. Anh Tấn gọi đồng chí thư ký và lái xe tên Thành lại và ra chỉ thị rất ngắn gọn: “Thành lấy xe đưa cậu ấy về Thái Bình. Đến nơi, nếu thấy tình hình có thể được, nghĩa là không xảy ra nguy hiểm trên đường thì ngay trong đêm đưa cô ấy lên thẳng Viện Quân y 108 để cấp cứu”. Anh Tấn bảo thư ký viết ngay một giấy giới thiệu kèm thư tay cho viện trưởng nhờ hết sức giúp đỡ.

Đồng chí thư ký hỏi lại anh: “Dạ, ngày mai có kế hoạch anh Trần Đông (lúc đó là Bí thư Thành ủy Hải Phòng) mời anh sang họp với Thành ủy và Ủy ban, anh có nhớ không ạ?”.

- Nhớ chứ, tối nay điện sang mượn xe anh Quyết (anh Nguyễn Quyết lúc đó đang là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 3), ở Kiến An.

Đồng chí lái xe lúc đó có vẻ chần chừ. Thấy vậy, anh Tấn nhắc: “Cậu Thành rõ nhiệm vụ chưa, cấp cứu tốt cho cô ấy rồi mới về. Làm ngay đi!”.

Đồng chí thượng úy mắt đỏ hoe, miệng lắp bắp: “Dạ, thưa thủ trưởng, em không dám ạ, em lên gặp thủ trưởng chỉ là để xin phép được nghỉ thôi ạ”.

Anh Tấn ôn tồn: “Thôi về mà lo cho cô ấy. Thế nhé!”.

Đồng chí thượng úy đi ra xe đầu vẫn quay lại như muốn nói gì thêm.

Phó tổng Tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn (thứ tư, từ trái sang) với cán bộ Sư đoàn 5 ở Prây-viêng (Cam-pu-chia). Ảnh tư liệu.

Hai ngày sau, đồng chí Thành lái xe quay về, báo cáo tóm tắt như sau: Về đến Thái Bình, thấy chị vợ đồng chí thượng úy đau rất dữ, song thần sắc còn tốt, nên quyết định đưa thẳng lên Viện Quân y 108 ở Hà Nội. Các bác sĩ chẩn đoán và kết luận là do giun móc nhiều chui cả vào cuống mật, nên đã chuyển sang Bệnh viện Bạch Mai vì ở đó có chuyên khoa điều trị, nay đã qua cơn nguy kịch. Nghe xong, anh Tấn tỏ vẻ hài lòng và chỉ nói một câu ngắn gọn: “Ừ, thế là tốt”.

Hai tuần sau, khi đoàn chúng tôi chuẩn bị rời Đồ Sơn thì đồng chí thượng úy phụ trách phục vụ nhà khách cũng đã về đơn vị. Anh phấn khởi ra mặt, vợ được cứu sống, đã khỏi bệnh về nhà. Anh lên tầng hai chào anh chị Tấn và cảm ơn. Mấy phút sau anh xuống, mặt có vẻ bần thần. Gặp tôi, anh tâm sự:

- Em định nói cho hết tấm lòng của cả gia tộc em, của vợ chồng em cảm ơn thủ trưởng, nhưng lên đến nơi thấy thủ trưởng đang đọc tài liệu nên chẳng nói được câu nào ra hồn.

- Thế thủ trưởng bảo sao?

- Biết được vợ em đã khỏi bệnh về nhà, thủ trưởng chỉ cười và nói: “Ừ thế là tốt, chúc mừng cậu”. Thấy thủ trưởng rất bận, em đành cảm ơn, chào rồi đi ra. Thủ trưởng đứng dậy bắt tay và vỗ vai em nói: “Cố gắng học tập và công tác cho tốt! Thế nhé!”.

Anh cứ băn khoăn mãi vì không bày tỏ được lòng biết ơn sâu sắc của bản thân và gia đình mình. Tôi lựa lời an ủi anh là đối với mọi người, anh Tấn đều đối xử như vậy. Nhân vui chuyện, tôi kể lại chuyện của tôi 17 năm về trước.   

Khi ấy, tôi cũng là một thượng úy, giáo viên Trường Sĩ quan Lục quân, từng công tác dưới quyền chỉ huy của Hiệu trưởng Lê Trọng Tấn. Đến cuối năm 1961, anh Tấn về Bộ đảm nhiệm chức Phó tổng Tham mưu trưởng.

Ngày 30 tháng Chạp năm Nhâm Dần 1962, tôi được về nghỉ Tết. Từ Sơn Tây, tôi gò lưng thồ các loại thực phẩm ăn Tết, đạp xe về Hà Nội, rồi còn phải lo chen tàu Tết về Nam Định. Ngày ấy, vợ tôi đi học Trường Y sĩ Nam Định và mới sinh con thứ hai. Gặp phải hôm mưa dầm, gió mùa Đông Bắc rất lạnh, đạp xe ngược gió mới tới phố Gạch (cách Sơn Tây 6km) thì phải dừng lại nghỉ. Giữa lúc ấy, một chiếc xe “GAZ 69” đít vuông phóng từ phía Sơn Tây về Hà Nội. Xe đi qua, nhận ra anh Tấn trên xe, tôi giơ tay chào, anh vẫy tay chào lại. Tưởng thế là xong, không ngờ lại thấy xe anh dừng lại. Anh gọi tôi đến và bảo lên xe. Tôi rất ngại vì xe đạp thì bẩn, đồ thồ theo toàn thực phẩm tươi sống, xe của anh thì mới toanh. Anh bảo: “Xe bẩn thì rửa, lên đi”. Anh xuống xe châm lửa hút thuốc, để đồng chí lái xe xuống giúp tôi tháo hàng, buộc xe đạp vào sau ô tô rồi về Hà Nội. Được vậy là quá tốt, tôi cũng không mong gì hơn. Về đến nơi anh ở, một căn nhà ở đường Tàu Bay (nay là đường Trường Chinh) được chia làm hai. Anh và anh Lê Quang Hòa ở chung căn nhà đó. Xuống xe, chị Tấn mời tôi vào uống nước. Biết tôi còn phải đưa quà Tết cho anh chị em ở Hà Nội rồi còn phải chen tàu về Nam Định, khả năng về tới Nam Định phải quá Giao thừa, anh gọi ngay lái xe, lúc đó đang tháo xe đạp giúp tôi lại và chỉ thị cũng rất ngắn:

- Thôi, cho cậu về quê Thái Bình ăn Tết 3 ngày, 5 giờ chiều Mồng Ba lên, tiện thể đưa luôn anh Thoại về Nam Định.

Tôi và cả đồng chí lái xe đều sững sờ không tin vào tai mình. Tôi nói ngay:

- Dạ, như thế sao được ạ? Ngày Tết anh còn phải đi thăm hỏi, chúc Tết nhiều nơi.

- Cứ yên tâm, đi đâu mình sẽ mượn xe anh Hòa!

Lúc đó, tôi cũng tưởng là vậy.

Chúng tôi lên xe về Nam Định, Thái Bình, lòng vui phơi phới. Tôi được hưởng trọn cái Tết với vợ con, nhất là bên cạnh thằng con trai thứ hai mới vừa đầy tháng. Sau Tết, tôi mới được biết đêm Giao thừa và cả ba ngày Tết, đi thăm bè bạn, họ hàng, anh Tấn chẳng mượn xe ai, mà đi bằng xe đạp.

Nghe xong câu chuyện của tôi, tâm tình của đồng chí thượng úy dịu đi. Anh ta đột nhiên nói:

- Với những thủ trưởng như thế này, bảo em làm việc khó khăn mấy em cũng làm.

Ôi! Lời khen thật mộc mạc, đối với mỗi người chỉ huy, xứng đáng như một tấm huân chương, mà cho tới lúc ra đi vào cõi vĩnh hằng anh cũng không hề biết. Việc yêu thương, quan tâm tới đồng đội và đặc biệt với cấp dưới là truyền thống của Quân đội ta, không phải chỉ có một mình anh làm. Song làm việc đó, nhân ái, chân tình và giản dị như anh thì thật là đặc biệt.

 VÂN HƯƠNG (*)

(*) Ghi theo lời kể của Thiếu tướng Nguyễn Đồng Thoại