Điều kỳ diệu là chính nhờ xem cuốn phim ca nhạc này, anh của liệt sĩ Phan Hữu Dũng đã tìm được hài cốt em trai mình.

Quê Đà Nẵng, chiến đấu ở đơn vị Đại đội 2 (c2) Hòa Vang, làm đến đại đội trưởng, suốt 8 năm cầm súng cho đến ngày quê hương giải phóng, ông Trần Chiến Chinh luôn giữ thói quen viết nhật ký chiến trường. Có trình độ văn hóa cấp 3 trước khi thoát ly, tính điềm tĩnh, cẩn thận cùng lòng yêu thương tha thiết đồng đội đã cùng “nếm mật nằm gai”, “chia ngọt sẻ bùi” nên các trang nhật ký của ông dày thêm qua từng năm tháng và trở thành cuốn sử thu nhỏ của đơn vị. Ông ghi cụ thể mỗi trận đánh, từng biến cố của c2, đặc biệt là bối cảnh hy sinh của từng cán bộ, chiến sĩ mà ông chứng kiến. 3 tập nhật ký dày ấy trở thành nỗi trăn trở suốt nhiều năm khi ông rời quân ngũ chuyển sang làm ở công ty về tơ tằm.

Mỗi lần đọc ký ức năm xưa, ông Chinh lại bần thần không biết đồng đội hy sinh đã được quy tập hết chưa, có ai nhớ đến họ không... Vậy là ông nghiền ngẫm để rút ra thành bài thơ với 300 câu lục bát, có “sức chứa” 200 cái tên đồng đội và các mẹ, các chị cơ sở cách mạng ở c2 và Khu 2 Hòa Vang. Chưa dừng ở đó, ông liên hệ với đạo diễn Nguyễn Lê Tâm, một chủ studio tư nhân chuyên làm phim ca nhạc ở Đà Nẵng để làm phim “Một thời để nhớ” bằng làn điệu dân ca bài chòi Khu 5. Kinh phí lên đến gần 100 triệu đồng hoàn toàn là tiền cá nhân ông bỏ ra. Đâu chỉ vậy, ông Chinh còn mất nửa năm trời lên rừng, xuống thác cùng đạo diễn Nguyễn Lê Tâm và ê-kíp rong ruổi làm phim. May mắn là ông đã được các CCB ủng hộ, cùng thăm lại các căn cứ xưa, tái hiện cuộc sống chiến trường Hòa Vang khốc liệt. Sau khi phim được công chiếu vào tháng 12-2014 ở Huyện ủy Hòa Vang và được đăng tải trên mạng, ông đã giúp nhiều gia đình tìm được hài cốt thân nhân từ chính 300 câu hát trong phim. Đặc biệt nhất là trường hợp của liệt sĩ Phan Hữu Dũng.

leftcenterrightdel
Cất bốc và quy tập hài cốt liệt sĩ Phan Hữu Dũng ở Hầm Xẻ - Cấm Đình. Ảnh:HÀ MY. 


Ông Thuần-anh trai của liệt sĩ Dũng, hiện sống ở TP Hồ Chí Minh-lâu nay biết em mình hy sinh ở xã Hòa Phong nhưng dù đã đi tìm nhiều lần vẫn vô vọng. Nghe mọi người giới thiệu bộ phim của CCB Trần Chiến Chinh, ông đã tìm xem và khi nghe câu hát Đi qua Hầm Xẻ-Cấm Đình/ Tứ bề địch phục, Dũng nằm lại đây thì biết đó chính là em mình. Liên hệ với ông Chinh và đọc nhật ký, gia đình mừng rỡ khi may mắn biết rất rõ trường hợp Phan Hữu Dũng hy sinh. Sau đó, hài cốt liệt sĩ Dũng đã được cất bốc và quy tập về nghĩa trang.

CCB Trần Chiến Chinh mở cuốn nhật ký đã hơi ố vàng nhưng nét chữ vẫn rất rõ ràng, chân phương, dễ đọc. Lần chạm trán với địch ngày 20-6-1971 được ghi khá chi tiết. Trung đội trưởng Dũng ngã xuống khi dính loạt đạn đầu tiên. Sơn-trinh sát đại đội cũng hy sinh sau đó. Nếu tên tuổi của liệt sĩ Dũng được ghi khá rõ thì với liệt sĩ Sơn, ông Chinh chỉ ghi là quê miền Bắc, trước khi về c2 ở đơn vị đặc công Lam Sơn, Thanh Hóa. Trong nhật ký cũng ghi rõ vị trí chôn cất hai liệt sĩ trong hang đá Cấm Dơi, hòn đá làm dấu đặt ở đầu. Vì thế, việc cất bốc hài cốt Phan Hữu Dũng khá thuận lợi. Riêng với trường hợp liệt sĩ Sơn, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP Đà Nẵng đã liên hệ với chính quyền tỉnh Thanh Hóa và tìm được quê anh là Triệu Hà, Triệu Sơn, Thanh Hóa. Việc cất bốc sẽ được tiến hành trong nay mai.

CCB Trần Chiến Chinh mở nhiều trang nhật ký khác về sự hy sinh của đồng đội. Tiểu đội trưởng Võ Kiến là người ông không thể nào quên. Trong chiến tranh không kịp hỏi han nhiều, ông chỉ biết Võ Kiến quê ở Kiến An, Hải Phòng. Đó là một chàng trai to khỏe, đến mức khi ông Chinh trèo lên cây cao quan sát địch, cành bị gãy, vậy mà Võ Kiến ở dưới đã đỡ ông nhẹ nhàng. Trong trận đánh ở Điện Sơn (nay là Điện Tiến, Điện Bàn, Quảng Nam), Võ Kiến bị địch bắn bể bụng và hy sinh tại chỗ vào ngày 4-5-1971. Ông Chinh cõng đồng đội của mình ra khỏi vòng vây và bàn giao cho cơ sở. Trong nhật ký, ông Chinh dành đến 2 trang lưu lại tình cảm rất xúc động của mình dành cho bạn. Trong phim “Một thời để nhớ” có câu: Nhớ khi cõng Kiến trên lưng/ Hiền Lương nối nhịp nhớ tìm nhau nghe.

May mắn hơn là trường hợp Trung đội trưởng Trần Xuân Tích cũng hy sinh ở Điện Tiến, được ghi khá rõ trong nhật ký và ông Chinh đã liên lạc được với gia đình liệt sĩ ở Nam Định. Kể đến đây, giọng ông buồn bã: “Tích hy sinh ngày 9-9-1972, bị địch khiêng về xóm 3. Chị Hạt, một cơ sở của chúng tôi đã chôn cất cẩn thận. Sau giải phóng, chị ấy đã bàn giao cho xã Điện Tiến và còn nhớ vị trí hàng mộ của anh Tích trong nghĩa trang. Vậy mà địa phương tắc trách đã không lưu tên vào bia, còn ghi nhầm tất cả lính c2 Hòa Vang thành Sư đoàn 2 (f2), trong khi đơn vị này không hề chiến đấu ở đây. Gia đình anh Tích đã lặn lội vào đến nơi nhưng không làm gì được. Trường hợp của Võ Kiến cũng vậy, cơ sở biết rất rõ vị trí chôn ở nghĩa trang xã này nhưng Kiến vẫn chịu vô danh. Sắp tới, chúng tôi sẽ làm quyết liệt hơn để trả lại tên cho đồng đội”.

Ông Thái Đình Hoàng, Phó giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP Đà Nẵng khẳng định: “Cứ theo 3 cuốn nhật ký và bộ phim “Một thời để nhớ” thì sẽ tìm ra rất nhiều hài cốt liệt sĩ nữa. Đúng là kỷ vật vô giá. Chúng tôi vô cùng biết ơn anh Trần Chiến Chinh…”.

HỒNG VÂN