 |
Đại tướng Văn Tiến Dũng ra làm việc ở đảo Cát Bà, Hải Phòng (1986). Đồng chí Trọng Xuyên ngồi ngoài cùng, bên trái |
Tôi chịu ơn anh Văn Tiến Dũng chẳng những là cấp chỉ huy cao nhất rất đỗi kính yêu, mà còn chính anh là người có ảnh hưởng quyết định bước ngoặt trong cả cuộc đời tôi. Cho đến tận bây giờ tôi vẫn luôn thầm nhủ, nếu như không gặp được anh lần ấy thì cuộc đời binh nghiệp của tôi chắc hẳn đã chấm hết từ lâu, chứ đâu còn được đến ngày hôm nay.
Từ năm 1959, sau khi có Nghị quyết 15 của Trung ương, cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn mới. Các đơn vị, các cán bộ quân dân chính đảng (miền Nam tập kết cùng miền Bắc) liên tục tiến về giải phóng miền Nam. Tôi cũng được lên đường cùng dòng người ấy.
Năm 1964, tôi làm Tham mưu trưởng Khu 6, gồm các tỉnh Nam Trung Bộ, được anh Trần Lê, Bí thư kiêm Chính ủy khu và anh Nguyễn Minh Châu, Tư lệnh, cử tôi ra Bắc báo cáo đồng thời chữa bệnh. Hồi đó quân y phát hiện tôi bị yếu phổi. Sau một thời gian điều trị, bắt đầu làm việc, người đầu tiên nghe tôi báo cáo là anh Văn Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị, Tổng tham mưu trưởng.
Tiếp tôi trong buổi báo cáo hôm ấy, anh rất vui, thân mật và niềm nở cũng như lần trước. Câu đầu tiên anh hỏi tôi là đã liên lạc được với gia đình chưa, tình hình chị và các cháu thế nào? Tôi thật xúc động. Không ngờ một tình tiết nhỏ rất riêng tư mà tôi đã báo cáo với anh cách đây gần 9 năm mà đến hôm nay anh vẫn còn nhớ và quan tâm. Tôi thưa là vợ tôi đã tích cực tham gia hoạt động, bị địch bắt tù đầy vì hoạt động cộng sản và có chồng đi tập kết. Trong thời gian vợ tôi đi tù, các con tôi phải nhờ bà ngoại nuôi dạy. Anh Dũng mừng là tôi còn liên lạc được với gia đình.
Khi tôi báo cáo tình hình Khu 6, anh chăm chú nghe và ghi chép. Anh rất quan tâm và đặt nhiều câu hỏi để tìm hiểu cuộc đấu tranh của đồng bào chống lại luật 10/59 và quốc sách dồn dân lập “ấp chiến lược” của địch, về cuộc sống của đồng bào, nhất là đồng bào các dân tộc, cán bộ và bộ đội trong điều kiện bị địch bao vây, tiếp tế gặp nhiều khó khăn, về những hình thức đấu tranh vận dụng sức mạnh tổng hợp cũng như việc vận dụng phương châm hai chân, ba mũi, ba vùng trong đấu tranh và tác chiến.
Buổi báo cáo diễn ra như một cuộc trao đổi rất thoải mái nhưng sâu sắc. Cuối cùng anh phát biểu ngắn gọn như vừa để đánh giá báo cáo, vừa đề cập đến triển vọng phát triển của công cuộc giải phóng miền Nam. Anh nói đại ý: Cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc còn nhiều gian nan và ác liệt, nhưng nhất định thắng lợi. Cực nam Trung Bộ là chiến trường quan trọng nằm trên cửa ngõ vào sào huyệt của Mỹ-ngụy là Sài Gòn, lại ở xa sự chỉ đạo của trên, sự chi viện và tiếp tế gặp nhiều khó khăn nên vốn đã khó khăn lại càng khó khăn hơn. Tuy vậy, phong trào cách mạng ở đây không những vẫn được duy trì mà lại còn phát triển, tạo được thế đi lên ngày càng vững chắc. Đây là kinh nghiệm thực tiễn sinh động chứng minh sự đúng đắn và sáng tạo của đường lối đấu tranh giải phóng miền Nam mà Đảng ta đã đề ra. Anh chuẩn bị để báo cáo với đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất và các đồng chí lãnh đạo khác. Tôi chắc rằng đồng chí Bí thư thứ nhất sẽ hài lòng khi nghe thực tiễn đấu tranh cách mạng ở chiến trường cực Nam Trung Bộ.
Sau khi tôi đã hoàn thành những công việc được giao, anh Văn Tiến Dũng quyết định cho tôi đi bằng con tàu không số theo đường mòn Hồ Chí Minh trên biển để về lại chiến trường Khu 6.
Tháng 7-1969, tôi làm Tư lệnh Khu 6, thay anh Nguyễn Minh Châu. Anh Châu về làm Tham mưu trưởng Miền (B2).
Công cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta ngày càng thu được thắng lợi to lớn và quyết định. Đại thắng mùa xuân 1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, Tổ quốc được thống nhất, giang sơn liền một dải. Đến lúc này tôi mới có điều kiện và thời gian để suy ngẫm lâu hơn và đầy đủ hơn về những gì mà anh Văn Tiến Dũng đã nói với tôi ngay từ những ngày đầu cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, tôi cũng cảm nhận sâu hơn về lòng kiên định và tầm nhìn chiến lược của anh, cũng như tình cảm sâu nặng của anh đối với đồng bào miền Nam ruột thịt.
Sau khi miền Nam được giải phóng, Khu 6 sáp nhật vào Quân khu 5, tôi được chỉ định làm Tỉnh đội trưởng tỉnh Thuận Hải (gồm Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy) kiêm Tư lệnh bộ đội trồng bông. Lúc này tôi nghĩ bố trí công tác tôi như vậy chắc cũng chỉ ba, bốn năm sẽ nghỉ công tác mà thôi. Để chuẩn bị cho cuộc sống đời thường khi về hưu, tôi đưa gia đình vào Phan Thiết, được tỉnh và Bộ chỉ huy bố trí một căn nhà nhỏ để ở và đã xin được việc làm cho vợ tôi ở bệnh viện tỉnh vì vợ tôi cũng làm nghề y. Tôi yên tâm với việc sắp xếp như vậy cho cuộc sống đời thường của mình khi phải rời quân ngũ và cố gắng làm hết sức mình để hoàn thành nhiệm vụ được giao trong thời gian cuối đời binh nghiệp mà tôi nguyện suốt đời phấn đấu.
Thế nhưng bước ngoặt của cuộc đời tôi lại xuất hiện quá đột ngột, làm tôi đến ngỡ ngàng. Đó là buổi sáng một ngày tháng 11-1976, Tỉnh đội nhận được điện của anh Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng, đang trên đường từ Sài Gòn ra Cam Ranh bằng trực thăng, bảo đón anh tại sân bay Thành Sơn (Phan Rang) vào 9 giờ sáng hôm sau. Tôi điện mời đồng chí bí thư và chủ tịch tỉnh cùng ra sân bay đón anh, chỉ thị cho các cơ quan chuẩn bị đón đoàn và chuẩn bị để tôi báo cáo.
Sáng hôm sau, đúng giờ, trực thăng hạ cánh, chúng tôi ra tận thang máy bay đón anh, chị và đoàn. Sau khi giới thiệu với anh về các đồng chí lãnh đạo tỉnh, tôi mời anh chị lên ô tô của tôi về cơ quan Tỉnh đội. Xe vừa ra khỏi sân bay, anh quay sang hỏi tôi: “Anh làm gì ở đây?”. Tôi thưa: “Báo cáo anh, tôi làm Tỉnh đội trưởng kiêm Tư lệnh bộ đội trồng bông”. Trả lời xong, thoáng thấy anh không vui, tôi lo quá. Rồi anh nhìn thẳng vào tôi, nghiêm giọng hỏi: “Ai bố trí?”. Tôi ngạc nhiên: “Thưa anh, tôi tưởng anh đã thông qua rồi”. Anh im lặng và quay nhìn ra bên đường cho đến khi về đến cơ quan. Tôi cũng lo không biết tôi đã có điều gì không phải với anh.
Chiều hôm ấy, tôi báo cáo với anh về tình hình mọi mặt của tỉnh. Anh bảo tôi cần đi sâu vào những việc đã làm, những khó khăn và đề nghị. Cũng như mấy lần làm việc trước, anh đặt vấn đề và giải quyết công việc thật cụ thể, rõ ràng, ngắn gọn, không hoa mỹ hoặc cao giọng hùng hồn. Cuối cùng, anh hỏi tôi: “Anh học cái nghề trồng bông này từ bao giờ?”. Tôi trả lời: “Thưa anh, tôi vốn đã ít được học văn hoá nên các nghề trồng bông sợi này thì tôi hoàn toàn i-tờ. Nhưng nhiệm vụ Đảng giao, tôi phải hoàn thành”. Anh cười trong suy nghĩ.
Sau buổi làm việc, tôi mời anh chị đi thăm một số nơi thuộc miền duyên hải cực nam, thăm Tỉnh uỷ và Ủy ban nhân dân tỉnh. Tối hôm đó, tôi mời các đồng chí lãnh đạo cùng ăn cơm với anh chị.
Sáng hôm sau, trên đường ra sân bay, anh vẫn trầm ngâm ít nói. Bỗng anh quay sang bảo tôi như ra lệnh: “Bàn giao ngay công việc cho chỉ huy phó để ra Hà Nội học. Sẽ có lệnh gửi vào”. Rồi anh đưa cho tôi tờ báo Nhân Dân, có đăng bài “Đại thắng mùa xuân” của anh. Nhiệm vụ đến quá đột ngột, tôi chỉ biết vâng dạ và đưa tay nhận tờ báo anh trao.
Một tuần sau, tôi nhận được điện của Quân khu 5 chỉ thị cho tôi dùng ô tô đơn vị đi thẳng ra Học viện Quân sự cấp cao ở Hà Nội (nay là Học viện Quốc phòng) để kịp vào học. Tôi bàn giao công việc và lên đường. Đến Hà Nội, tôi kịp vào học khóa I của Học viện. Trong lớp, anh Đặng Vũ Hiệp, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, cùng học. Tôi đề nghị anh Hiệp sau khoá học cho tôi về lại đơn vị cũ nhưng không được. Tôi lại tiếp tục đi học thêm văn hóa ở Đông Anh, rồi sau đó vào học lớp chính trị cao cấp ở trường Đảng Nguyễn Ái Quốc (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh ngày nay).
Trong khi tôi đang học thì nổ ra chiến tranh biên giới phía Bắc nước ta (2-1979). Tôi nhận được quyết định về Quân khu 3 làm Phó tư lệnh, đến năm 1986 làm Tư lệnh, kiêm Bí thư Đảng uỷ Quân khu 3. Năm 1988, tôi về làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. Năm 1993, tôi làm Thứ trưởng thường trực của Bộ cho đến khi kết thúc cuộc đời binh nghiệp về với cuộc sống đời thường.
Như vậy đấy, được như hôm nay tôi và gia đình tôi luôn nhớ ơn anh Văn Tiến Dũng. Anh đã đi xa và đang yên nghỉ trên cõi vĩnh hằng nhưng hình ảnh của anh, người thầy, người anh kính mến vẫn mãi in đậm trong tôi và trong cả gia đình tôi. Tôi xin được thắp nén hương thành kính của lòng mình và xin được ghi lại những dòng tưởng niệm này để mãi mãi biết ơn anh: Đại tướng Văn Tiến Dũng kính mến!
Thượng tướng Nguyễn Trọng Xuyên*
---------------------------------------------------------
* Nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng