Tháng 2-1968, đại đội trinh sát, Trung đoàn Thủ Đô, Sư đoàn 308 của tôi được lệnh cử một phân đội đi trước theo sở chỉ huy nhẹ vào chiến trường Khe Sanh làm nhiệm vụ nắm địch, địa hình, chuẩn bị các yếu tố cần thiết cho trung đoàn bước vào chiến đấu. Tôi khi đó là Trung đội trưởng Trung đội 2 được giao nhiệm vụ phụ trách phân đội này.

Ngày 23-5-1968, khi đã vào đến chiến trường, tôi nhận được lệnh: “Cử hai tổ Trinh sát và một máy vô tuyến điện 2W-P105 ra sát Đường 9 bám địch kịp thời báo cáo về trung đoàn”. Tôi chọn 6 chiến sĩ trong đó có hai đồng chí Địch và Thiệu là đảng viên; số anh em còn lại tôi cho về nơi tập kết của đại đội. Quá trưa chúng tôi phát hiện địch có dấu hiệu chuyển quân. Bằng mắt thường, chúng tôi đếm được tổng số 186 tên lính Mỹ đi trên đường độc đạo theo một hàng dọc. Do nắm chắc địch và thông thạo địa hình nên trong hai đêm 25 và 26-5, bộ phận trinh sát đã dẫn đường bảo đảm bí mật, an toàn cho đoàn cán bộ của trung đoàn vào tiềm nhập chuẩn bị cho trận đánh. Sau đó, trung đoàn đã hạ quyết tâm dùng lực lượng của Tiểu đoàn 8 dưới sự chỉ huy của Tiểu đoàn trưởng Phạm Duy Tân và Chính trị viên Nguyễn Huyến đánh Mỹ ở đồi bằng làng Cát (thuộc xã Đakrông, huyện Hướng Hóa, Quảng Trị). Khoảng 3 giờ sáng 28-5, Tiểu đoàn trưởng Phạm Duy Tân đã ra lệnh nổ súng và báo cáo về cấp trên cho pháo bắn chế áp vào căn cứ Tà Cơn và bắn chi viện cho tiểu đoàn đánh điểm cao làng Cát.

Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Phó tổng Tham mưu trưởng (mặc áo trắng hàng trên) về thăm Trung đoàn Thủ Đô vào năm 1968. Trung úy Nguyễn Anh Cường (thứ ba từ trái sang) lúc đó đang là Đại đội trưởng Đại đội Trinh sát. Ảnh do nhân vật cung cấp.


Màn đêm tĩnh mịch, âm u của núi rừng Khe Sanh bỗng rộ lên những tiếng nổ inh tai bởi hàng trăm quả đạn pháo, cối dồn dập nã vào sở chỉ huy, trận địa pháo ở trung tâm căn cứ Tà Cơn và điểm cao làng Cát. Trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt ngay từ đầu. Súng bộ binh của hai bên bắn chéo sang nhau cắt thành những vệt lửa chằng chịt trong đêm. Lúc này, tổ trinh sát còn năm người: Tôi, Địch, Pha, Thiệu và Thứ. Theo dõi diễn biến trận đánh, tôi đề xuất ý kiến với anh em trong tổ trinh sát: “Ta nên tổ chức thành một mũi để phối hợp cùng bộ binh tiêu diệt địch”. Có tiếng làu bàu: “Mình đã hoàn thành nhiệm vụ, về trung đoàn báo cáo xem có gì tính sau”. Tôi nghĩ trong lúc đồng đội đang chiến đấu, mà mình lại rút về thì có nên hay không? Không thể chần chừ được nữa, tôi nghĩ lúc này chỉ có… họp tổ Đảng mới có thể đi đến thống nhất được. Lại có ý kiến: “Ông là đảng viên dự bị, triệu tập họp tổ Đảng như thế là không đúng nguyên tắc”. Tôi hơi chột dạ nhưng bằng sự khéo léo, kiên trì thuyết phục, tôi còn nhỏ nhẹ: “Đồng chí Chính ủy Nguyễn Hiền đã nói: trong lúc khó khăn ác liệt các đồng chí chỉ được phép bàn tiến, không bàn lùi. Hơn nữa, lúc này bộ binh đang gặp khó khăn, thêm một tay súng sẽ góp phần thắng lợi cho trận đánh, nếu để chậm trễ sẽ lỡ mất thời cơ diệt địch, lập công”. Sau một lúc, các đồng chí đều tán thành, hội ý tổ Đảng đã diễn ra một cách nhanh chóng. Thống nhất xong, chúng tôi chọn đi theo đường vòng phía
Nam, vách đá hiểm trở vì biết địch sẽ chủ quan, không phát hiện được. Do mấy đêm liền ra vào khu vực này nên chúng tôi đến gần mục tiêu không khó. Tới sát vách đá, người nọ bám người kia để trèo lên. Qua một hõm đá, tôi phát hiện rõ bọn Mỹ đang lố nhố trong công sự chỉ cách chúng tôi chừng 15m. Tôi ra hiệu cả 5 anh em cùng tung thủ pháo vào công sự đắp bao cát không có nắp và nổ hàng loạt AK vào chúng. Bị đánh bất ngờ, địch rống lên, khiếp đảm. Nhìn sang bên phải, phía sau ụ đất, thấy có 2 cần ăng-ten, tôi chỉ hướng tay về đó cho đồng chí Địch và ra hiệu. Cả hai quả thủ pháo đều quẳng vào cùng lúc, tiêu diệt được đài thông tin chỉ điểm pháo binh của địch. Sau đó chỉ còn những quả pháo bắn theo tọa độ cũ, tiếng nổ rời rạc, không tập trung như trước, chắc là pháo và thông tin của địch đã mất liên lạc với nhau.

Trận địa bỗng im ắng lạ, tôi kiểm tra phân đội, thấy đồng chí Địch bị thương vào chân, đồng chí Thiệu bị thương vào sườn. Bỗng một quả cối cá nhân nổ phía trước rất gần, tôi tối sầm mặt mũi, tai ù đặc, máu chảy xuống cằm. Dựa vào công sự của địch vừa chiếm được, mấy anh em chúng tôi băng bó cho nhau, cảnh giới đề phòng địch phản kích. Vừa lúc đó đồng chí Hà Quang Sen, Trung đội trưởng Trung đội 1 của Đại đội 6 cùng một số chiến sĩ đến chi viện. Trận đánh kéo dài đến trưa thì kết thúc, quân ta đã thắng lợi giòn giã...

NGUYỄN DANH QUÂN (Ghi theo lời kể của Thượng tá Nguyễn Anh Cường, nguyên Trung đội trưởng Trung đội 2, Đại đội Trinh sát, Trung đoàn Thủ Đô)