Thiếu tướng Trần Minh Hùng, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 5 là người con của làng Hà Quảng, xã Điện Dương, Điện Bàn, Quảng Nam. Mảnh đất biển một bên, sông một bên, giữa là bãi cát dài và hẹp quanh năm rì rào sóng gió đã thổi vào tâm hồn anh tình yêu quê hương, đất nước, nâng bước anh đi suốt cuộc đời binh nghiệp, từ người lính trở thành dũng sĩ diệt Mỹ, từ con một người đánh cá nghèo trở thành tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, từ dăm chữ học được ở trường làng trở thành người làm thơ, viết báo không chuyên.
 |
Thiếu tướng Trần Minh Hùng (giữa) cùng vợ con
|
13 tuổi, cậu bé Trần Minh Hùng hăm hở theo các anh chị rải truyền đơn, làm giao liên, tham gia biểu tình, ném lựu đạn vào đội hình địch, rồi được làm thành viên nhỏ nhất của Đội công tác Đ.64. 15 tuổi, đánh trận đầu tiên trong đội hình R.20 Quảng Đà, trở thành dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt máy bay khi còn rất trẻ. 22 tuổi đã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 anh hùng, một trong những đơn vị chủ lực góp phần giữ vững Thành cổ Quảng Trị lịch sử, rồi tiếp tục tiến lên mặt trận Tây Nguyên. Đất nước hoàn toàn giải phóng, anh có mặt trong đội hình Trung đoàn 95 bảo vệ biên giới Tây Nam, tham gia giải phóng Cam-pu-chia khỏi nạn diệt chủng, làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 307 rồi trở thành Phó tư lệnh Quân khu 5. Mảnh đất Hà Quảng với những con người “ăn sóng nói gió” giúp anh có tố chất một người chỉ huy mạnh mẽ, táo bạo, lập nhiều chiến công...
Bận bịu việc quân nhưng anh vẫn dành thời gian làm thơ và viết hồi ức chiến tranh. Thơ anh là nhật ký chiến trường, song hành cùng anh sống và chiến đấu, cùng anh lưu giữ bao kỷ niệm trong cuộc đời quân ngũ. Anh nói rằng, chính mảnh đất quê nghèo đã cho anh ngọn nguồn yêu thương và cảm xúc vô tận, cho anh tâm hồn lãng mạng cách mạng. Đó là tình cảm kính trọng về người cha liệt sĩ một lòng sắt son với nước, về người mẹ tuyệt vời, người bạn đời cùng làm du kích lúc thiếu niên với bao buồn vui nhung nhớ… Một chị y tá Xuân Mai bên sông Thu chăm sóc anh trong những ngày ở R.20, sau đó hy sinh trên đường làm nhiệm vụ khiến anh nhớ thương, day dứt suốt mấy mươi năm; một chiến sĩ quân tình nguyện trẻ măng, ngã xuống khi vừa xung trận; một Bà mẹ Việt Nam anh hùng K’so H’rú Gia Lai ôm chầm hài cốt con mình vừa tìm được, ôm cả màu cờ Tổ quốc vào lòng… đều làm anh rung cảm khôn xiết để rồi từ đó là hình ảnh gần gũi của thơ anh, của những bài báo làm xúc động lòng người.
Có lần anh vào UBND xã Điện Dương xin thắp hương ở nghĩa trang liệt sĩ. Lãnh đạo xã thật sự bất ngờ khi một sĩ quan cao cấp quân đội mà vẫn khiêm nhường đến vậy. Anh lại nghĩ khác. Dù cấp bậc gì anh vẫn là người con của quê hương và làm được gì cho địa phương là anh sẵn sàng. Hằng năm, vào dịp Tết Nguyên đán, anh luôn về thăm, tặng quà UBND xã, đóng góp ý kiến về kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, nhất là trong công tác quân sự địa phương. Anh nói chuyện truyền thống với thanh niên sắp lên đường tòng quân, tặng sổ tiết kiệm cho gia đình nghèo, neo đơn; tự nguyện đóng góp tiền để xây dựng các công trình nhà văn hóa thôn, đình làng, các quỹ khuyến học.
Ra đi lúc tuổi thiếu niên, lúc về tóc đã điểm bạc, quê hương vẫn là điểm tựa, là niềm vui để anh được chở che. Có lẽ thế mà vào tuổi lục tuần, người ta thấy Thiếu tướng Trần Minh Hùng vẫn rất trẻ và chỉn chu trong ăn mặc như xưa. Trên bàn làm việc của anh, có cuốn sổ dành cho thơ, trong đó có rất nhiều bài đang hoàn chỉnh về mảnh đất đã sinh ra mình. Nhưng câu thơ anh thích nhất, được ghi trang trọng trong tập hồi ức “Một quãng đời tôi” lại là câu thơ của Đỗ Trung Quân: “Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nổi thành người”.
Bài và ảnh: Hồng Vân