 |
Trung tướng Lê Hữu Đức
|
Rồi một ngày kia
Nếu về cha hỏi
Mẹ đi đâu con biết trả lời sao?
Con hãy bảo: “Trông cha mòn mỏi
Mẹ từ trần sau mấy tháng đau”.
Thế hệ những người lính cầm súng đánh giặc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc chắc hẳn không mấy ai không biết bài thơ Núi đôi của Vũ Cao, Màu tím hoa sim của Hữu Loan, hoặc Quê hương của Giang Nam. Chiến tranh khốc liệt, không chỉ có những cô phụ chờ chồng, mà còn có cả những số phận éo le: “Nhưng không chết/ Người trai khói lửa/ Mà chết/ Người gái nhỏ hậu phương”. Nỗi đau tưởng chừng như nghịch lí đó đã thôi thúc bao thế hệ cầm súng đánh giặc giữ nước và cũng tạo nên những bài thơ bất hủ, những bài thơ nằm trong đáy ba lô chiến sĩ.
Trung tướng Lê Hữu Đức cũng không nằm ngoài số đó. Nhưng với ông, còn có một bài thơ khác. Đó là bài thơ bằng tiếng Pháp trong sách hồi ông còn đi học. Hết chống Pháp đến chống Mỹ, việc quân bận rộn, bài thơ rơi vào quên lãng. Rồi đến một ngày làm chấn động đời ông: Năm 1968, khi đang chỉ huy ở chiến trường Tây Nguyên thì ông nghe tin vợ mất ở Hà Nội. Nỗi đau đớn khôn nguôi và từ trong tiềm thức, bài thơ xưa hiện về, xót xa, lâm li, như nói về số phận của vợ chồng ông. Từ đó, dù ở chiến trường khốc liệt hay những năm tháng căng thẳng trí tuệ ở Tổng hành dinh trên cương vị Cục trưởng Cục Tác chiến, Bộ Tổng tham mưu, bài thơ thoắt ẩn, thoắt hiện trong ông mỗi khi cô quạnh. Cứ thế gần 40 năm, ông đến các thư viện tìm lại bài thơ mà không tìm được. Chợt nhớ đến giáo sư Nguyễn Lân Dũng, con trai của giáo sư Nguyễn Lân, thầy dạy mình hồi ở trường Quốc học Huế, ông gọi điện “cầu cứu”. Khi nhận được bài thơ do chính giáo sư Nguyễn Lân Dũng gửi đến, ông bồi hồi, xúc động như tìm lại được một báu vật.
Tôi chợt nhớ đến truyện “Người đầu bếp già” của Pau-tốp-xki. Ông lão đang hấp hối, khi nghe tiếng dương cầm của thiên tài âm nhạc Mô-da, lập tức quá khứ hiện về: Ông nhớ ngày đầu tiên gặp người yêu, nàng nở nụ cười và đánh rơi vò sữa. Rồi những tia nắng rơi xuống bức tường đá, những cây táo đang nở rộ hoa và bầu trời xanh thêm, đẹp thêm… Ký ức, như những sợi vật chất được đánh thức sau bao ngày ngủ quên bởi cuộc sống mưu sinh, lại trỗi dậy khi về già…
 |
Trung tướng Lê Hữu Đức và bà Nguyễn Thị Đạm Liên hồi mới cưới nhau
|
Ngôi nhà của Trung tướng Lê Hữu Đức ở trong một ngõ nhỏ của phố Đội Nhân (Hà Nội). Những ngày lễ lớn như Ngày thành lập Quân đội nhân dân (22-12), ngày 30-4, cánh nhà báo hay lui tới nhà ông hỏi chuyện và lúc đó, hàng xóm mới nghe giọng Nghi Xuân (Hà Tĩnh) vang khỏe của ông. Còn ngày thường, ông ngồi lặng lẽ trong thư phòng ngổn ngang sách vở, tài liệu. Thỉnh thoảng, tôi đến thăm ông. Lần nào cũng vậy, ông đọc cho tôi nghe bài thơ có câu mở đầu “Rồi một ngày kia…” bằng tiếng Pháp và tiếng Việt, rồi ngồi lặng lẽ bên tấm ảnh chụp với người vợ hồi còn trẻ. Vị tướng cao lớn, một thời xông pha trận mạc, kiên quyết, thông minh, nhiều mưu lược, được đồng đội gọi với cái tên thân mật “Đức cụt” (ông cụt một tay thời chống Pháp) nay đang hoài niệm về một thời đã qua. Ông nhớ dòng sông quê hương, nhớ bố mẹ tảo tần khoai sắn nuôi ông khôn lớn, nhớ những ngày đi học ở Huế, nhớ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Nhập ngũ ở Huế, theo đoàn quân vào chiến đấu ở Đà Nẵng rồi Quảng Nam. Tại đây, ông gặp được “ý trung nhân” của mình, một cô gái xứ Nghệ rất trẻ nhưng đã đảm nhiệm cương vị Bí thư đảng đoàn phụ nữ huyện Đại Lộc. Người con gái đó tên là Nguyễn Thị Đạm Liên.
- Cô ấy thấp, nhỏ nhưng có khuôn mặt dễ thương, cử chỉ nhẹ nhàng thanh thoát. Đạm Liên quê ở Nam Đàn, từng học ở trường Đồng Khánh. Ngày xưa những người con gái có học như thế ít lắm. Mến tài nhau, vừa đồng chí lại vừa đồng hương, chúng tôi đã đến với nhau-Trung tướng Lê Hữu Đức kể.
 |
Bài thơ bằng tiếng Pháp và bức thư của giáo sư Nguyễn Lân Dũng gửi Trung tướng Lê Hữu Đức
|
Yêu nhau cuối năm 1946, nhưng đến tháng 3-1947, ông bị thương nặng, phải cắt cánh tay. Nghĩ đến tương lai của người yêu, một cô gái trí thức mới 21 tuổi, ông chủ động “cắt” quan hệ. Không ngờ Đạm Liên biết chuyện, tìm đến “xạc” cho ông một trận: “Anh tiểu tư sản quá. Vợ chồng ai mà chẳng muốn trọn vẹn, nhưng đã hứa với nhau thì phải giữ lời chứ!”.
Năm 1950, họ tổ chức đám cưới ở thị xã Tam Kỳ. Không nhà không cửa, đêm tân hôn, đôi vợ chồng trẻ dắt tay nhau đi suốt một đêm khắp thị xã rồi sáng mai ra mỗi người lại lao vào công việc của mình. Thương tình, nhiều gia đình cho vợ chồng lãng mạn đó mượn cái nong, mảnh chiếu ra ngoài vườn tâm sự. Nhiều lúc khó khăn quá, đôi vợ chồng trẻ phải biến điếm canh, mảnh ruộng vừa gặt hoặc chòi gác làm giường hạnh phúc của mình.
Cuộc sống gian khổ, vất vả nhưng rất lãng mạn của những ngày tháng đó vẫn in đậm trong trái tim ông. Năm 1953, Lê Hữu Đức được điều ra Việt Bắc nhận nhiệm vụ ở Tổ miền Nam của Bộ Tổng tham mưu, Đạm Liên về công tác ở Quân khu 4. Vợ chồng xa nhau cho đến năm 1955, khi bà được điều ra Ban đối ngoại của Trung ương Hội Phụ nữ Việt Nam, họ mới được sống bên nhau.
- Vợ tôi hiền lắm, tuyệt vời, tôi phục lắm! 10 năm ở với nhau, chưa bao giờ tôi thấy bà ấy đánh con bao giờ. Tôi thỉnh thoảng nóng quá, cũng đánh con, phết chúng nó vào đít. Những lúc đó, vợ tôi đưa chúng đi rửa mặt, xong bắt vòng tay xin lỗi ba. Đêm về, khi các con đã đi ngủ hết, bà mới phê bình tôi. Bà ấy bảo rằng, anh là nhà quân sự, nhưng đừng dạy con bằng roi vọt. Các con còn nhỏ, nên anh phải tình cảm với chúng nó chứ. Trước những lời dịu dàng và chân thành ấy, tôi mới thấy hối hận...
Vị tướng già lại chìm đắm trong suy tư. Phải chăng ông nhớ lại hơn 40 năm về trước với những tháng ngày đầm ấm, hạnh phúc. Ông nhớ những lần đi công tác, bà bao giờ cũng chuẩn bị cẩn thận, từ quần áo cho đến đồng tiền đi đường. Đất nước chiến tranh, kinh tế mỗi gia đình eo hẹp, bà phải chắt chiu dành dụm từng li từng tí nuôi con để ông yên tâm công tác. “Vợ tôi giỏi lắm, hiền lắm và rất đảm đang”. Mỗi lần gặp tôi, khi nhắc đến người vợ cũ, ông đều nói như vậy. Có lần, ông bảo với tôi rằng, nếu không có bà ấy, thì sẽ không có Trung tướng Lê Hữu Đức. Bởi đơn giản là nếu vợ ông không đảm đang lo toan gánh vác việc nhà thì làm sao ông yên tâm vào chiến trường Tây Nguyên chiến đấu để sau đó 7 năm được đề bạt Cục phó Cục Tác chiến...
Năm 1965, Trung tá Lê Hữu Đức rời Hà Nội, chia tay người vợ thân yêu và 3 đứa con thơ vào chiến trường Tây Nguyên nhận nhiệm vụ Tham mưu trưởng Sư đoàn 1, sau đó là Tham mưu trưởng Sư đoàn 6, dưới quyền chỉ huy của Sư đoàn trưởng Nguyễn Hữu An. Không ngờ, ngày chia tay cũng là ngày ông vĩnh biệt người vợ thủy chung và hiền thục.
Ngày 15-6-1968, một ngày đã khắc vào trái tim ông một nỗi đau không thể nào quên. Lúc đó ông đã là Tham mưu phó Mặt trận Tây Nguyên. Buổi chiều, đi công tác về cơ quan, ông nhận được một bức điện khẩn từ Hà Nội gửi vào. Giở ra, ông choáng váng, đất dưới chân ông như sụp đổ: Bức điện của Tổng cục Chính trị báo tin vợ ông vừa mới mất! Ông không tin vào mắt mình, mặc dù đó là sự thật. Vợ ông còn trẻ thế kia, hiền hậu và giỏi giang thế kia, làm sao mà chết được. Sau này, khi trở ra Hà Nội, nghe cơ quan của bà kể lại, ông mới biết bà chết vì làm việc quá sức. Một nách 3 con nhỏ, chiến tranh phải đưa đi sơ tán tận Vĩnh Phúc, bà vẫn bám cơ quan làm việc không ngày nghỉ. Giỏi tiếng Pháp, bà còn học tiếng Nga, tiếng Anh để dịch tất cả các bài phát biểu của lãnh tụ và các nghị quyết của Đảng, thông cáo của Nhà nước ra 3 thứ tiếng. Xong việc cơ quan, bà lại lóc cóc xe đạp đi thăm nuôi con. Việc nhiều, cuộc sống vất vả, lại không có chồng bên cạnh đỡ đần nên bà bị bệnh huyết áp. Một buổi sáng, đang làm việc thì bà bỗng nhiên kêu nhức đầu. Bà bỏ dở công việc ra ngoài bàn uống nước thì thổ ra máu. Mọi người tức tốc đưa bà đi bệnh viện Hữu nghị Việt-Xô cấp cứu nhưng 24 giờ sau bà vĩnh viễn ra đi mà không kịp gặp được 3 đứa con thơ. Lúc đó, bà mới 39 tuổi!
- Bà ấy trẻ quá! Con người như vậy mà chết thật tội, thật thiệt thòi. Cuộc đời bà ấy chưa có một ngày an nhàn...
Sau khi vợ mất, Lê Hữu Đức mất thăng bằng một năm trời, sức khỏe giảm sút kinh khủng. Khuôn mặt ông hốc hác, đôi mắt trũng sâu vì thiếu ngủ. Thương người vợ hiền bao nhiêu, ông lại lo cho 3 đứa con thơ dại nay mất mẹ không biết sống như thế nào giữa bom đạn của giặc Mỹ. Ban ngày lo chiến đấu, nỗi đau tạm vơi đi, nhưng đêm về mắc võng thì khuôn mặt của người vợ lại hiện lên đến đau lòng. Và ông nhớ lại bài thơ bằng tiếng Pháp mà ông không rõ tác giả. Bài thơ có 4 đoạn, đại ý chồng đi xa, vợ ở nhà thương nhớ quá lâm bệnh nặng. Trước khi chết, bà đã trăng trối với con như đoạn mở đầu bài thơ. Đêm Tây Nguyên âm u lạnh lẽo, cả năm trời đêm nào ông cũng đọc khổ thơ này bằng tiếng Pháp và tiếng Việt. Đọc, và chảy nước mắt. Bài thơ như nói về người vợ thương yêu của ông. Cuộc đời binh nghiệp bận rộn cũng không cản được quyết tâm tìm lại bằng được bài thơ trên. Gần 40 năm trôi qua và may mắn, ông đã gặp được giáo sư Nguyễn Lân Dũng...
- Sau này, tôi có đi bước nữa. May mắn cho tôi là người vợ sau là một nhà giáo, rất tâm lý và cũng hiền lành, tôn trọng quá khứ của tôi. Chúng tôi sống hạnh phúc và có thêm con cái. Nhưng anh ạ, tình yêu ấy mà, nó lạ lắm... Tôi không thể nào quên Đạm Liên. Đó là mối tình đầu của tôi.
Ánh nắng xuyên qua cửa sổ soi rõ khuôn mặt ưu tư và tuổi tác của Trung tướng Lê Hữu Đức. Tấm thân cao lớn của ông bất động làm cho không gian thêm tĩnh mịch. Nhưng tôi biết, bên trong đó là một trái tim nồng nàn đang thức đập.
HỒNG SƠN