QĐND - "Vị tướng già” là biệt hiệu do quân đội Mỹ dành cho ông, một trong những vị tướng từng làm Tư lệnh Mặt trận B3-Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mỹ. Ông còn được Bác Hồ gọi là “Chú Hai Mạnh”-mạnh về quân sự, mạnh cả về chính trị. Ông là cố Đại tướng Chu Huy Mân, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
 |
Đại tướng Chu Huy Mân (bên phải). Ảnh do gia đình cung cấp. |
"Vác cần câu mà đánh giặc”
Sông suối Tây Nguyên trước đây chỗ nào cũng lắm cá. Gần như chiến sĩ nào cũng sắm vài ba lưỡi câu và một cuộn sợi dây cước. Hễ dừng quân để ăn trưa hay tạm trú dọc đường rừng, lính ta thường tranh thủ buông câu. Chỉ cần vài ba chục phút là được dăm mười con, góp lại, tha hồ nấu canh chua bằng lá rừng cho cả tiểu đội. “Vị tướng già” cũng có thú vui này. Mỗi khi làm việc căng thẳng, ông thường đi ra suối gần lán ở để câu cá. Nhưng ông đi câu khác người. Ông thường đem theo cần vụ, vệ binh và một trợ lý tác chiến, cùng với một tấm bản đồ. Ông tìm một chỗ bằng phẳng hoặc một tảng đá đẹp, cùng mọi người ngồi xuống và thả câu. Đầu ông cũng cúi xuống như thể đang chăm chú chờ đợi con cá tới đớp mồi. Bầy tép riu háu đói ngửi thấy mùi tanh của mồi trùn (giun đất), liền lao đến rỉa lấy rỉa để, mà nào ông có hay. Chỉ đến khi chú cần vụ nhắc thủ trưởng, ông mới “ờ” một tiếng và cài lại mồi câu khác. Đang câu nửa chừng, chợt ông nhớ ra điều gì, liền bảo đồng chí trợ lý tác chiến ngồi cạnh:
- Cậu lấy bản đồ đem trải ra đi!
Đồng chí trợ lý tác chiến liền mở xắc-cốt đeo bên mình, lấy tấm bản đồ ra, trải phẳng phiu trên một tảng đá. Cả hai thầy trò cùng chụm đầu chỉ trỏ trên tấm bản đồ và bàn bạc cùng nhau. Họ đang trao đổi về cách triển khai, cách điều binh và các mẹo đánh trong chiến dịch sắp sửa diễn ra nay mai một cách say sưa, mặc cho lưỡi câu bị cá lôi đi.
"Tôi sẽ “điều” Mỹ ra mà đánh”
Thời chiến tranh, đồng bào dân tộc thiểu số Gia Rai, Xê Đăng ở phía tây sông Sa Thầy, Pô Cô thường có thói quen phát rẫy trồng lúa trỉa bắp một hai mùa thì bỏ hoang và đi phát rẫy mới. Tấm bản đồ của “vị tướng già” cũng đánh dấu các rẫy hoang đó bằng ký hiệu B1, B2, B3... Lính ta quen gọi là: Bãi Một, Bãi Hai, Bãi Ba...
Một hôm, ông xuống thăm các đơn vị và ra lệnh cho các đơn vị đó lập trận địa bao quanh các bãi trống mà ông đã dự kiến từ trước. Ông yêu cầu trận địa phải có hầm hào chắc chắn và ngụy trang chu đáo. Riêng các phân đội pháo, ông còn yêu cầu đo đạc cự ly bằng dây chính xác từ điểm đặt pháo đến từng điểm mà địch có thể đặt sở chỉ huy, trạm truyền tin, trận địa pháo, các ụ súng bộ binh của chúng, nhằm tính toán các phần tử bắn sẵn, khi có lệnh phát hỏa sẽ bắn trúng đích ngay từ loạt đạn đầu.
Lính ta bàn tán xôn xao: “Ông già kỳ quặc thật! Ở nơi khỉ ho cò gáy, sâu trong vùng căn cứ của ta, làm gì có Mỹ mà bắt anh em xây dựng trận địa!”. Ông già nghe được, liền bảo: “Tôi sẽ “điều” Mỹ ra cho các cậu tú tha hồ mà đánh!” (Chả là lính miền Bắc phần đông đã qua chương trình phổ thông trung học). "Nếu đánh không xong, tôi sẽ phạt nặng đấy!”.
Vài hôm sau, người ta thấy một tiểu đoàn hành quân giữa ban ngày vào một vùng rừng ven thị xã Plei-cu! Đêm lại bí mật rút ra và sáng hôm sau lại luồn rừng đi vào, đêm lại rút. Lại vào... lại ra... thám báo địch báo về: Có cỡ cấp sư đoàn Việt Cộng đang lần lượt tiến vào gần thị xã Plei-cu! Chúng chắc mẩm ta đang chuẩn bị đánh lớn vào Plei-cu trong mùa khô 1965-1966. Cùng lúc đó, ta bao vây đồn biệt kích địch ở Plây Me. Quân địch điều một chiến đoàn ngụy đến giải vây. Ta mở trận giao thông chiến đón đánh quân cứu viện, diệt 68 xe cơ giới các loại, loại khỏi vòng chiến đấu chiến đoàn này. Đó là ngày 23-10-1965.
Lập tức, quân Mỹ dùng chiến thuật nhảy cóc bằng trực thăng vận, lần lượt đổ quân đóng chốt từ xa đến gần tại các điểm B1, B2, B3... để chặn đường rút lui của quân ta. Đồng thời, dùng B-52 rải thảm bom phát quang để tiêu diệt hoặc sát thương quân ta trên đường hành quân tập kích vào các điểm chốt của chúng.
Nhưng nhờ có hầm hào vững chắc và đã ém quân từ trước nên quân ta vẫn an toàn. Bộ tư lệnh lập tức phát lệnh cho pháo binh nã pháo vào các trận địa địch vừa đóng chốt, hầm hào còn sơ sài. Và bộ binh chớp nhoáng đánh vào các điểm chốt đó. Do bất ngờ, quân Mỹ bị tiêu diệt gọn một tiểu đoàn và một tiểu đoàn khác bị thiệt hại nặng, tạo điều kiện cho chiến dịch Plây Me mùa khô 1965-1966 thắng lợi giòn giã. Lực lượng vũ trang Tây Nguyên vinh dự được Bộ chỉ huy Miền tặng một lúc 2 Huân chương Quân công giải phóng hạng nhất vì đã lập công xuất sắc và tiêu diệt một tiểu đoàn bộ binh Mỹ đầu tiên trên chiến trường miền Nam.
Sau chiến dịch, lính ta xuýt xoa khen Bộ tư lệnh “xiếc” thật! Vì đã “tương kế tựu kế” nhử địch ra vùng gần hậu cứ của ta để tiêu diệt. Nhiều lần bị những cú lừa tương tự, cùng các mẹo đánh khác, đã làm cho quân Mỹ thận trọng hơn nhưng vẫn cứ bị khi ta dùng chiến thuật “chốt kết hợp với vận động chiến” trong Chiến dịch Đắc Tô nổi tiếng sau đó. Bọn Mỹ gọi ông là “vị tướng già” là vì vậy.
NGUYỄN KHẮC QUÁN