Tháng 9-1953, tôi về dự hội nghị quán triệt 3 nhiệm vụ lớn của Liên khu 4 trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Cuộc họp vừa xong, một đồng chí cán bộ văn phòng Bộ tư lệnh Liên khu đến rỉ tai:
- Mời đồng chí Trường Sinh, Trung đoàn trưởng Trung đoàn tình nguyện quân 120 lên gặp Chính ủy Võ Thúc Đồng.
Đến nơi không kịp để tôi chào hỏi, anh Đồng vào việc luôn:
- Tình hình khẩn trương lắm rồi! Khu ủy đã phân công anh Hoàng Anh, Bí thư Liên khu ủy trực tiếp chỉ đạo Thanh Hóa phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Mình cùng cậu sang Trung Lào bàn với anh Khăm Tày, Tư lệnh Trung Lào mở chiến dịch Trung Lào. Đêm nay ta đi luôn, vừa đi cậu vừa nghe tình hình nhiệm vụ, làm sao nắm chắc được các vấn đề đến Lào là triển khai ngay. Công việc gấp lắm rồi!
![](http://file.qdnd.vn/data/old_img/phucthang/2009/12/17/SKNC192Tuan08.jpg) |
Bác Hồ về thăm quê Nghệ An năm 1961. Đi bên cạnh Bác là Bí thư Tỉnh ủy Võ Thúc Đồng. Ảnh tư liệu |
Tôi chẳng kịp ghé về Đức Thọ thăm vợ con dù đã cách xa mấy năm. Ăn cơm tối xong là chúng tôi lên đường ngay. Bài học đầu tiên tôi học được trong chuyến hành quân này ở Chính ủy Võ Thúc Đồng là tính khẩn trương và cụ thể. Phần phổ biến nhiệm vụ cho tôi anh nói ngắn gọn để tôi nắm được yêu cầu của chiến dịch, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc hậu phương khu IV để chi viện tối đa sức người, sức của cho Điện Biên, Trung Lào, Bình Trị Thiên. Còn phần tôi, tôi báo cáo với anh tình hình chiến trường Trung Lào vô cùng gian khổ. Anh hỏi tỉ mỉ mọi việc hành quân, tình hình dân, tình hình lực lượng bạn, tình hình địch, ý định của tôi, của các đồng chí trong chỉ huy trung đoàn. Khi đến Lắc Xao, tôi định điều thêm một trung đội đi bảo vệ anh vì đoạn đường sắp tới địch hay phục kích, anh gạt phắt đi:
- Các cậu thông thạo tiếng Lào nên đến đâu ta dựa vào dân, đó là cách bảo vệ tốt nhất. Không ai bảo vệ được cán bộ bằng dân. Đi càng gọn nhẹ đội hình càng bảo đảm bí mật. Nhưng hướng hành quân, giờ hành quân thì phải luôn thay đổi, luôn đánh lạc hướng địch.
Chúng tôi không về sở chỉ huy trung đoàn mà tới ngay Sở chỉ huy Mặt trận Trung Lào. Biết anh Đồng đến, anh Khăm Tày mừng lắm, khoản đãi một ché rượu cần. Phong cách ứng xử linh hoạt nên trong tiệc rượu anh Đồng đã trao đổi xong những dự kiến của Đảng ủy Liên khu về chiến dịch Mặt trận Trung Lào cho Tư lệnh Khăm Tày nghe. Anh nhấn mạnh yêu cầu về tổ chức Liên quân Lào-Việt được anh Khăm Tày hết sức hoan nghênh và phân công ngay trong tiệc rượu: anh Khăm Tày làm Tư lệnh, anh Đồng làm Bí thư Ban cán sự kiêm Chính ủy các lực lượng tình nguyện (kể cả các đơn vị Bộ sắp chi viện sang). Tôi được chỉ định làm Phó ban cán sự, anh Phùng Duy Phiên được chỉ định làm Tham mưu trưởng.
![](http://file.qdnd.vn/data/old_img/phucthang/2009/12/17/SKNC192Tuan09.jpg) |
Đồng chí Võ Thúc Đồng, Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Liên Xô.
|
Cuộc họp Ban chỉ huy Liên quân Lào-Việt được tổ chức ngay trong sáng đầu tiên khi anh Đồng đến Sở chỉ huy Trung Lào. Sau một buổi thảo luận, phân tích tình hình, yêu cầu nhiệm vụ, anh Khăm Tày đề nghị anh Đồng kết luận hội nghị. Tôi hơi giật mình, chân ướt chân ráo vừa đến, tình hình ta lúc này còn gặp nhiều khó khăn nhất là tiếp tế, tình hình bạn lúc này cơ sở còn mỏng, lực lượng chiến đấu thiếu đồng bộ, trong lúc địch còn 5 tiểu đoàn trang bị đầy đủ, chốt chặt trên các trục đường 8, 9, 12,… liệu anh Đồng kết luận sao đây? Đặc biệt trong công tác với bạn, nếu sơ suất lần đầu, sau mọi việc đều khó. Ai dè với năng lực vượt trội của mình anh Đồng kết luận đâu vào đó. Đặc biệt 4 giải pháp đưa ra là: Ta và bạn phối hợp chặt chẽ liên tục mở các lớp bồi dưỡng cho cán bộ các cấp xã, huyện, tỉnh; Tổ chức 30 đoàn đi xây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng, vận động các bản làng xây dựng lực lượng du kích, đóng góp xây dựng LLVT ở Ma-ha-xây, Bô-la-phà, Tà Ôi, Mưởng-nòng, Kăm-kốt, ven đường 9,… Về cung cấp, anh chỉ thị cho anh Nguyễn Văn Thân, Khu ủy viên Khu 4 đảm trách cung cấp chiến dịch, thành lập các trạm vận tải từ Nghệ-Tĩnh sang Trung Lào, huy động dân công ở khu vực này để vận chuyển vũ khí, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh… Anh Đồng kết luận vừa xong, tiếng vỗ tay vang lên. Tôi thật không ngờ anh nắm tình hình nhanh, chỉ đạo sắc đến thế.
Anh là một cán bộ chính trị dạn dày kinh nghiệm. Những ngày gần anh, tôi học tập được ở anh một tinh thần chịu khó lắng nghe mọi người để rút ra những kết luận có tính lãnh đạo và chỉ đạo cao nhưng lại rất ngắn gọn, dễ nhớ, dễ hiểu.
Hôm bàn về phương châm tác chiến chiến dịch, anh phát biểu trước, sau nêu lên 12 chữ: “Chủ động, linh hoạt, bí mật, bất ngờ, đánh chắc, diệt gọn” để chỉ đạo các đơn vị và cơ quan xây dựng kế hoạch cho sát hợp tình hình. Hết sức chăm lo đến công tác Đảng, công tác chính trị, anh trăn trở cùng với cơ quan chính trị tìm mọi biện pháp để giáo dục cho bộ đội, dân công, Thanh niên xung phong nhận thức rõ, sâu lời Bác: “Giúp bạn là tự giúp mình, là ăn cơm nhà, làm việc nhà trên đất bạn”, chăm lo việc thực hiện các chính sách dân tộc với bạn trong quá trình làm nhiệm vụ. Đến đâu anh cũng nhắc phải làm sao để thực hiện được “đi dân nhớ, ở dân thương”.
Trong lãnh đạo chiến đấu, anh Đồng có những cách làm rất mới. Việc điều động Đại đội 126 Thanh Chương, 128 Con Cuông, điều động các đơn vị bộ đội địa phương khác ở Hà Tĩnh, Quảng Bình lên tham gia chiến đấu là sáng kiến của anh. Tôi nhớ mãi anh nhắc tôi khá nhiều lần: lâu dài là một tỉnh của Liên khu phải kết nghĩa để giúp đỡ một tỉnh của bạn. Quả là một tầm nhìn rất xa.
Khi ở chiến trường Bắc Bộ, Đại đoàn 316 nổ súng tiến công giải phóng Lai Châu, anh thống nhất với anh Khăm Tày cho Trung đoàn 101 tiến công giải phóng Khăm He ngay. Chiến thắng Khăm He ngày 21-12-1953 là cơ sở để anh và anh Khăm Tày hạ quyết tâm giải phóng Kha-ma, Nhom-ma-rát, Khăm Muộn. Khi Na-va bổ sung mấy binh đoàn, anh mừng quá reo lên: Thế là hắn trúng vào kế ông Giáp rồi! Và anh nhắc chúng tôi ngay: Sắp tới khó khăn đó! Quả đúng như vậy, địch lợi dụng tăng viện, lợi dụng khả năng bảo đảm hậu cần phản công quyết liệt. Trong khó khăn, anh Đồng tỏ ra hết sức bình tĩnh. Tôi còn nhớ phương châm lúc đó anh nêu là: “Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu, phát triển xuống phía Nam”. Đây là một chủ trương hoàn toàn đúng. Sợ mất Thà-khẹc, Xa-van-na-khẹt, địch bố trí trên đường 9, 13 dày đặc, trong khi đó A-tô-pơ, Lào Ngam, Bung-kma thì chúng sơ hở. Nắm chắc tình hình, mặt trận đã tung Tiểu đoàn 436 và một số đơn vị bạn xuống phía Nam loại khỏi vòng chiến đấu hơn 3.000 tên, giải phóng một vùng đất rộng lớn hơn 2.000km2 nối thông 3 nước Việt-Miên-Lào. Chiến thắng A-tô-pơ là cơ sở để Bộ tư lệnh hạ quyết tâm cho Mặt trận Trung Lào phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ tổng công kích giành toàn thắng ở Trung Lào, xây dựng thế liên hoàn chiến lược Đông Dương là một chiến trường, nam bắc Việt Nam là một thế trận.
Chiến thắng Trung Lào là một cột mốc chiến công rực rỡ trong lịch sử liên minh chiến đấu Việt-Lào. Trong chiến thắng này, vai trò của Chính ủy Võ Thúc Đồng rất quan trọng. Lúc thuận lợi, lúc khó khăn anh đều là tấm gương, là điểm tựa, niềm tin cho chúng tôi. Gần anh trong suốt thời gian chiến dịch, tôi đã nhận ra ở anh tư chất nổi trội của một cán bộ chính trị, một nhà chỉ huy quân sự, một người làm công tác đối ngoại khéo léo trong ứng xử, vững vàng trong nguyên tắc và một người đồng chí luôn chân tình, quý trọng anh em.
Trường Sinh (kể). Nguyễn Khắc Thuần (ghi)