Nhóm 6 người ngay lập tức đem theo xẻng, cuốc đến bến đò Quảng Xá, xã Vĩnh Lâm (huyện Vĩnh Linh). Trời rất tối, mưa phùn bay lất phất, lạnh. Tới bến đò Quảng Xá, họ tiếp nhận một chiếc quan tài và chỉ biết đó là thi hài một cán bộ cách mạng cao cấp, nhiệm vụ là đem về chôn giấu, sau này sẽ có người tới nhận. Bốn người, hai đòn lặng lẽ khiêng quan tài. Hai dân quân Nậy A và Nậy B người cùng làng thận trọng vác mã tấu đi kèm hai bên bảo vệ nghiêm cẩn. Đêm tối mù nhưng đoàn người vẫn lầm lũi bước gấp, nhằm hướng Rú Theo của làng mà đi. Tới nơi, họ chọn thửa đất của gia đình ông Nguyễn Hữu Bi đào huyệt, hạ quan, không đắp nấm mộ, chỉ trồng lên trên bụi sắn dây làm dấu.
Trong kháng chiến chống Pháp, huyện Vĩnh Linh là vùng tạm chiếm. Quân Pháp đóng đồn ở thị trấn Hồ Xá, cách Rú Theo không đầy một cây số, mấy lần xua quân đi càn, xộc ra đó lùng bắt Việt Minh, dòm dòm, ngó ngó, tra hỏi người này, hoạnh họe người khác nhưng Việt Minh chẳng thấy đâu, còn mộ người cán bộ ấy vẫn bình an vô sự.
Tác giả bài viết bên mộ “Con hùm xám” - liệt sĩ Hùng Việt, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thiện Thuật. Ảnh: HOÀI TRẦN.
Năm 1954, kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp, hòa bình được lập lại trên một nửa đất nước, dân làng Nam Phú mới có điều kiện đắp ngôi mộ liệt sĩ to, cao hơn và lúc này mới được biết tên người nằm dưới mộ, đó là ông Hùng Việt, Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thiện Thuật (Trung đoàn 95), từng được mệnh danh là “Con hùm xám Đường số 9”. Bà con nhân dân đều ngưỡng mộ, thán phục cuộc đời chiến đấu như huyền thoại của ông.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước diễn ra. Mộ ông Hùng Việt-“Con hùm xám” chỉ cách bờ sông giới tuyến Bến Hải-Vĩ tuyến 17 chừng 7 cây số. Đây là vùng bị bom đạn tàn phá dữ dội. Đại tá, cựu chiến binh Hoàng Đức Lộc, hiện đang sống ở thành phố Đông Hà (tỉnh Quảng Trị), là một trong những chiến sĩ đầu tiên của Trung đoàn Thiện Thuật kể rằng:
Khu vực mộ ông Hùng Việt gần trận địa pháo cao xạ nên bị máy bay đánh phá nhiều lần, theo đó ngôi mộ cũng từng ấy phen hư khuyết. Mỗi lần như vậy, ông Nguyễn Hữu Bi không quản tuổi già, trằn lưng ra đào đất, đắp, sửa hì hục cả ngày. Thế nhưng, thứ đất đỏ tơi, xốp, dù lèn chặt đến mấy cũng không chịu nổi sức công phá của bom đạn. Ông tìm cách khác, động viên con cháu cùng với ông đi xa hàng cây số cặm cụi khuân về từng viên đá chèn chắn quanh mộ. Nhìn ngôi mộ lừng lững như hòn non bộ tọa lạc giữa vườn nhà, ông vuốt râu cười khà khà nói với bà con hàng xóm: “Trừ phi bom tạ, bom tấn “đánh đáo” trúng mộ thì tôi chịu thua”...
Có lần, một lúc hai quả bom bi rơi trúng mộ nhưng sức nổ của nó chỉ làm lệch đi vài hòn đá, ông lại cười: “Mi chỉ gãi ngứa cho ông nớ thôi”. Là nói vui vậy chứ sau đận đó, ông tiếp tục khuân thêm đá đắp cho ngôi mộ chắc chắn hơn, bom đạn không phải là chuyện đùa. Ông Hoàng Đức Lộc kể tiếp: Một lần, B-52 ném bom rải thảm vào làng đúng lúc ông Nguyễn Hữu Bi đang gặt lúa ngoài đồng. Từ trong xóm bời bời khói lửa, hàng chục người lao ra đồng tránh đợt bom thứ hai, còn ông Bi từ ngoài đồng hớt hải chạy ngược vào làng, đâm bổ ra vườn xem ngôi mộ có mệnh hệ chi không. Mộ ông Hùng Việt vẫn không hề hấn gì. Lần nữa, ông Bi lại cười một tràng dài khoan khoái.
“Con hùm xám”-ông Hùng Việt nằm trong vườn nhà ông Bi suốt 37 năm, vượt qua hai cuộc chiến tranh một cách yên bình. Năm 1984, mộ ông được quy tập về Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Vĩnh Linh.
Tháng 12-1989, một vị tướng già, tóc bạc trắng đứng trầm ngâm trước ngôi mộ liệt sĩ Hùng Việt nghi ngút khói hương. Đó là Thượng tướng Trần Sâm, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Vào thời điểm ông Hùng Việt hy sinh, ông Trần Sâm là Chính ủy trung đoàn, được bổ nhiệm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thiện Thuật. Kể từ mùa xuân 1947, 42 năm trôi qua, tướng Trần Sâm vẫn nhớ như in trận đánh khốc liệt trên Đường số 9. “Con hùm xám” can trường, chỉ huy trung đoàn tổ chức trận đánh phục kích địch cơ động từ Lào về trên Quốc lộ 9, thắng lợi hoàn toàn. Khi ông hy sinh tại làng Hà Thượng, xã Gio Châu, huyện Gio Linh (tỉnh Quảng Trị), địch như thoát được nỗi lo lắng bất an bởi từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta, chúng luôn đối mặt với những trận đánh “thần sầu” do ông chỉ huy. Biệt danh “Con hùm xám” cũng do những tên chỉ huy quân giặc đặt cho ông. Chúng đã từng treo giải cho ai lấy được đầu “Con hùm xám” với cái giá 500 đồng bạc Đông Dương. Ông Hùng Việt hy sinh ngày 9-3-1947. Trước đó, ông được bộ đội và nhân dân tin tưởng, yêu mến bao nhiêu thì cũng là nỗi khiếp sợ của kẻ thù bấy nhiêu. Vì vậy, khi bọn Phòng Nhì quân Pháp ở Trung Bộ biết tin ông Hùng Việt hy sinh, chúng hí hửng mừng thầm, tung gián điệp dò la tung tích nơi mai táng “Con hùm xám”. Về phía ta đã tính tới trường hợp xấu nhất: Nếu địch tìm ra được nơi chôn cất, có thể chúng sẽ khai quật thi hài ông, trả thù người đã chết giống như vua chúa thời phong kiến vẫn làm. Chính vì thế, Trung đoàn Thiện Thuật và chính quyền kháng chiến tỉnh Quảng Trị quyết định phải chôn cất, bảo vệ mộ ông Hùng Việt một cách bí mật, an toàn. Và câu chuyện diễn ra như đã nói ở trên.
Ông Hùng Việt có tên khai sinh là Đinh Huy Phan, sinh năm 1909, quê quán Nam Tân, Nam Trực, Nam Định. Trong kháng chiến chống Pháp, sau khi Mặt trận Tây Nguyên vỡ, Trung ương điều ông Hùng Việt vốn là Chỉ huy trưởng Mặt trận Tây Nguyên về Quảng Trị làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Thiện Thuật (sau lấy phiên hiệu Trung đoàn 95) kiêm Chỉ huy trưởng Mặt trận Đường 9. Ông nổi tiếng là vị chỉ huy gan dạ, mưu lược, cùng trung đoàn chặn đánh cánh quân 500 lính Pháp do Đại tá Tuốc-canh chỉ huy từ Lào theo Đường 9 đánh về Đông Hà trong năm đầu kháng chiến chống Pháp. Ý chí, quyết tâm diệt địch của ông khiến quân Pháp nhiều lần nhừ đòn ở Khe Sanh, Rào Quán, Kho Muối, Đầu Mầu... Ông Hùng Việt đã được Đảng, Nhà nước tôn vinh danh hiệu liệt sĩ, truy phong Anh hùng LLVT nhân dân năm 1989.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tôi-tác giả bài viết này-là chiến sĩ thuộc Trung đoàn 270, làm nhiệm vụ trực chiến tại trận địa cao xạ ở xã Vĩnh Nam, sát cạnh ngôi mộ ông Hùng Việt. Hồi đó, chúng tôi được bà con nhân dân, các cán bộ đơn vị kể cho nghe chuyện về ngôi mộ và cuộc đời, chiến công người nằm dưới mộ-“Con hùm xám”. Lòng ngập tràn xúc động và ngưỡng mộ đã tiếp thêm cho chúng tôi sức mạnh chiến đấu. Giờ đây, mỗi lần đi qua Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Vĩnh Linh, tôi đều vào thắp hương lên mộ ông Hùng Việt và các đồng chí, đồng đội của tôi đã hy sinh trong chiến tranh. Họ đã sống và chiến đấu rồi nằm xuống giữa tuổi thanh xuân. Còn tôi, nay đã 76 tuổi, vậy mà mỗi khi đứng trước họ, trái tim tôi như nóng lại dòng máu tuổi hai mươi.
TRẦN BIÊN