Người cộng sản anh dũng, kiên trung

Đồng chí Hà Huy Tập (Hồng Thế Công, Sinitchkine, Joseph Marat) sinh ngày 24-4-1906, trong gia đình nhà Nho yêu nước tại làng Kim Nặc, tổng Thổ Ngọa, nay thuộc xã Cẩm Hưng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ, Hà Huy Tập được thân phụ dạy học chữ Hán tại nhà, sau đó đi học và đỗ đầu kỳ thi tốt nghiệp tiểu học ở tổng Thổ Ngọa, nhưng do gia cảnh khó khăn nên không được học tiếp.

Năm 1917, nhờ có người giúp đỡ, Hà Huy Tập được ra tỉnh lỵ Hà Tĩnh học Trường Tiểu học Pháp-Việt. Năm 1919, Hà Huy Tập đỗ thủ khoa kỳ thi chọn học sinh xuất sắc do nhà trường tổ chức, được cấp học bổng, rồi vào học Trường Quốc học Huế. Năm 1923, tốt nghiệp Trường Quốc học Huế hạng ưu nhưng vì không có điều kiện học lên nữa nên đồng chí vào làm giáo viên Trường Tiểu học Pháp-Việt tại Nha Trang (Khánh Hòa). Trong thời gian này, đồng chí Hà Huy Tập tiếp xúc và đọc nhiều tài liệu, hiểu thêm về tội ác của thực dân Pháp, cuộc sống bị áp bức của nhân dân lao động ở Việt Nam và Đông Dương. Trong tiểu sử tự thuật trên thẻ sinh viên, đồng chí Hà Huy Tập viết: “Năm 1923,... tôi đã có tư tưởng chống bọn bảo hoàng và bọn thực dân, bởi tôi cảm thấy căm thù sự chuyên chế, bóc lột của chủ nghĩa thực dân và chế độ phong kiến... Cuộc đời cách mạng của tôi chỉ bắt đầu từ năm 1925. Năm đó, tôi được tiếp xúc với các cựu chính trị phạm”.

leftcenterrightdel
 Đồng chí Hà Huy Tập.

Tháng 8-1926, thầy giáo Hà Huy Tập chuyển về dạy học tại Trường Cao Xuân Dục ở Vinh, Nghệ An; tích cực hoạt động trong Hội Phục Việt, tuyên truyền tư tưởng chống chuyên chế và chống thực dân Pháp trong học sinh và tầng lớp lao động. Đồng chí Hà Huy Tập viết: “Tháng 8-1926, tôi được chuyển về Vinh... Ở Vinh, tôi được giới thiệu với một nhóm cộng sản. Những ngày sống tại thành phố này, tôi đã tham gia vào việc bí mật gửi những sinh viên sang Trung Quốc dự các lớp huấn luyện ở Quảng Châu, nơi mà những người Việt Nam xuất dương đã thiết lập ở đó một tổ chức cộng sản và tổ chức này đã có những chi bộ ở trong nước” (Tiểu sử tự thuật).

Tháng 3-1927, thầy giáo Hà Huy Tập vào dạy học tại một trường tiểu học ở Sài Gòn, sau đó đến Bà Rịa làm công nhân, lập ra một chi bộ, một hội đọc sách báo và tổ chức các lớp học xóa mù cho công nhân. Theo tài liệu của sở mật thám Đông Dương viết về Tân Việt cách mạng Đảng cho biết: Hà Huy Tập phụ trách việc tổ chức. Tháng 12-1928, đồng chí Hà Huy Tập và một số đồng chí khác được cử đến Quảng Châu (Trung Quốc) bàn việc hợp nhất Tân Việt cách mạng Đảng với Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên. Trong thời gian gần 3 năm sau đó, đồng chí được cử đi học tại Trường Đại học Phương Đông ở Moscow (Liên Xô) với tên là Sinitchkine, nhập học ngày 19-7-1929, số thẻ sinh viên 4716, khi mới 23 tuổi.

Tháng 6-1933, đồng chí Hà Huy Tập về Trung Quốc hoạt động cách mạng, tham gia Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương, triển khai công tác chuẩn bị và tổ chức Đại hội lần thứ nhất của Đảng. Sau một thời gian chuẩn bị về nội dung, nhân sự và tổ chức, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến 31-3-1935, dưới sự chủ trì của đồng chí Hà Huy Tập. Đại hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện, vạch đường lối cho cách mạng Việt Nam. Tại đại hội này, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư; đồng chí Hà Huy Tập làm Thư ký Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng.

Năm 1936, hội nghị giữa các đồng chí chủ chốt Ban chỉ huy ở ngoài và Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp ngày 26-7-1936, tại Thượng Hải (Trung Quốc). Nghị quyết của hội nghị đã bổ khuyết cho các nghị quyết của Đại hội I của Đảng và thật sự mở ra cho cách mạng Đông Dương một thời kỳ phát triển mới. Hội nghị đã bầu đồng chí Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Từ sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 3 (khóa I) diễn ra từ ngày 29 đến 30-3-1938, đồng chí thôi giữ chức Tổng Bí thư nhưng vẫn tham gia Thường vụ Trung ương Đảng.

leftcenterrightdel
 Bìa tác phẩm “Trotsky và phản cách mạng” của đồng chí Hà Huy Tập mang bút danh Thanh Hương. Ảnh tư liệu

Ngày 1-5-1938, do bị chỉ điểm, mật thám Pháp đã bắt Hà Huy Tập khi đồng chí đang hoạt động ở Sài Gòn. Ngày 30-1-1939, tòa án thực dân Sài Gòn kết án Hà Huy Tập 5 năm tù “tước quyền công dân và chính trị, 10 năm không được sống ở các vùng có âm mưu lật đổ” (báo cáo của sở mật thám Nam Kỳ, tháng 3-1941, Hồ sơ 94-SMT). Trong bức thư cuối cùng gửi cho người thân trong gia đình, đồng chí Hà Huy Tập đã viết: “Sài Gòn 2-5-41. Em rể thân yêu. Ngày 23-10-1940, tôi bị tòa đại hình Sài Gòn xử 5 năm tù. Ngày 25-3-1941, tôi bị tòa án binh Sài Gòn tuyên án tử hình về tội “hoạt động cộng sản” và “xúi giục phá hoại quốc phòng”... Cương nhận được thơ này thì nhớ viết thơ khuyên mẹ chớ khóc lóc, buồn rầu. Nếu tôi phải chết thì ở nhà không nên thờ cúng, điếu phúng, không cần tìm người lập tự, gia đình bạn hữu chớ xem tôi là người đã chết mà phải buồn, trái lại, hãy xem tôi như là người còn sống, nhưng đi vắng một thời gian vô hạn... mà thôi!... Nếu tôi được khổ sai chung thân thì thường có thơ về thăm gia đình. Nếu chẳng may mà phải chết thì bức thơ này là thơ vĩnh biệt. Tôi chúc cho mỗi người trong gia đình và tất cả bạn hữu gần xa được hạnh phúc và khương minh”.

Sau thời gian bị tra tấn, cùm kẹp, ngày 28-8-1941, tại Hóc Môn, Gia Định, thực dân Pháp đã đưa các đồng chí: Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai... ra xử bắn. 

“Hãy xem tôi như là người còn sống”

Với 35 năm tuổi đời, trải qua gần 16 năm hoạt động cách mạng, trong đó có gần hai năm giữ cương vị Tổng Bí thư của Đảng, với nhiều bí danh và tên gọi khác nhau, đồng chí Hà Huy Tập đã có nhiều chủ trương, quyết sách lãnh đạo cách mạng nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thử thách. Đồng chí Hà Huy Tập đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc ta. Như lời tuyên bố đanh thép trước tòa án đế quốc, đồng chí Hà Huy Tập đã khẳng khái nói: “Nếu còn sống, tôi sẽ tiếp tục hoạt động”.

Đồng chí Hà Huy Tập là một trong những nhà lý luận xuất sắc của Đảng ta, thể hiện trong các văn kiện do đồng chí soạn thảo, trong các bài viết, bài bút chiến. Tiêu biểu nhất trong số đó là cuốn “Sơ thảo Lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương”, viết khi đồng chí 23 tuổi. Đồng chí đã tổng kết sâu sắc thực tiễn cách mạng Việt Nam trong những năm đầu do Đảng lãnh đạo. Ngoài ra, đồng chí còn viết khoảng 25 tác phẩm khác. Cuộc đời hoạt động cách mạng oanh liệt của đồng chí tuy ngắn ngủi nhưng những đóng góp của đồng chí cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, dân tộc ta là rất quan trọng và to lớn...

NGUYỄN VĂN BIỂU