Ông vốn là một vị tướng trận mạc nổi tiếng, lại thích viết văn, từ năm 15 tuổi (1939) đã có tác phẩm đầu tay được nhà văn lão làng Trần Thanh Mại rất khen ngợi.
Một sáng chủ nhật, tôi đến gặp ông tại nhà riêng trên bán đảo Thanh Đa-Bình Quới bên sông Sài Gòn. Sau chuyện văn chương, tôi muốn nghe chuyện Quân đoàn 4 do Tư lệnh Hoàng Cầm và ông chỉ huy tiến vào giải phóng Phnôm Pênh giúp nước bạn Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng diễn ra một năm trước. Ông suy nghĩ giây lát rồi kể cho tôi nghe câu chuyện về người lính tình nguyện Việt Nam có ý thức bảo vệ thủ đô nước bạn khỏi bị bom đạn tàn phá:
“Trước hết, tôi muốn kể lại thời khắc ngày 7-1-1979, lúc gọi điện về nước báo tin giải phóng Phnôm Pênh. Bởi đây là thời khắc của lịch sử và là một kỷ niệm không quên trong đời chinh chiến của tôi. Đầu máy bên kia tôi nghe giọng thì biết đó là anh Y. Anh thông cảm, tôi không nêu tên thật và chức vụ của anh ấy:
- A lô, Đoàn Cửu Long-Mê Công báo cáo các anh. Chúng tôi đã vào Phnôm Pênh hồi 10 giờ 30 phút và hoàn thành chiếm lĩnh các mục tiêu quy định hồi 12 giờ.
Tại nhà riêng, Thiếu tướng Bùi Cát Vũ giới thiệu những kỷ vật của mình và bạn bè tặng, năm 1980. Ảnh: PHAN HOÀNG.
- Thật không? Tình hình trong thành phố ra sao?
Rồi giọng hạ nhỏ, không phải nói với tôi: “Rồi! Rồi! Đơn vị của anh Khang Sarin và anh Hoàng Cầm chiếm Phnôm Pênh rồi”. Có tiếng ồ à, cười sảng khoái trong máy nghe khá rõ. Tôi nói tiếp:
- Báo cáo, thành phố rộng, chúng tôi nắm chưa được hết, mới gặp chúng đánh du kích lẻ tẻ. Thành phố hầu như không có dân.
- Có chắc ăn chưa?
- Chắc ạ! Chúng tôi đã chiếm phía bắc thành phố, mũi phía tây và tây nam đang phát triển ra chiếm Sân bay Pô-chen-tông và Đài phát thanh. Phía đông, ta đã chiếm khu vực Bộ Tổng Tham mưu của Pôn Pốt và dọc bờ sông đến Hoàng cung rồi.
- Hoan nghênh! Tiền phương Bộ biểu dương Cửu Long-Mê Công.
Sau khi điện xong, tôi trở về ngôi nhà hình rẻ quạt, cũng vừa lúc có hai xe bọc thép M113 đến. Anh Lê Nam Phong chạy vào báo là Tư lệnh Quân đoàn Hoàng Cầm tới. Chúng tôi ôm nhau. Mới xa nhau có một tuần và mới nói chuyện với nhau qua điện thoại hồi sáng, thế mà tưởng đã lâu lắm rồi. Anh Hoàng Cầm kể, anh bay trực thăng đuổi theo đoàn xe, gần đến Phnôm Pênh bị pháo cao xạ của địch bắn lên ác quá, anh mới quyết định cho quay lại Đường 1, đáp xuống phía nam cầu Mô-ni-vông khoảng 15 cây số rồi lấy xe M113 của Đoàn 341 đi vào. Anh bảo: Đến gần cầu, hỏi mãi không ai biết ông ở đâu cả. Chừng ấy tôi mới nhớ lại câu anh dặn tôi hồi sáng là đến nam cầu Mô-ni-vông thì triển khai sở chỉ huy ở cách cầu độ vài ki-lô-mét đón anh lên. Giờ thì có các anh đến rồi, tôi thấy nhẹ cả người.
Phnôm Pênh có một đặc điểm là đứng chỗ nào cũng nhìn thấy đền Phnôm, ngôi tháp đồ sộ hình chuông úp. Đó là biểu tượng của thủ đô này. Còn lạ lẫm với thành phố, chúng tôi thường lấy tháp Phnôm làm điểm chuẩn để đi, về. Tháp và đền Phnôm được xây trên một hòn non bộ nhân tạo mà tuổi tác có thể tính bằng những cây đa cổ thụ trồng trên sườn núi ít ra là 5 thế kỷ. Đây là vùng đất của huyền thoại, sử thi. Tôi đã được nghe bạn kể lại sự tích của thành phố bốn mặt sông này. Thuở xa xưa nơi đây còn hoang dã, nhân dân địa phương gọi là vùng Buôn-múc, Buôn-đay (bốn mặt, bốn tay) vì sông Mê Công và Tông-lê Sáp gặp nhau rồi chia thành bốn nhánh. Vào một buổi sáng ở thế kỷ 15, một bà nông dân tên Pênh phát hiện 6 tượng Phật bằng bạc nằm trong bọng cây trôi dạt vào bờ. Bà Pênh rước Phật lên rồi đắp một mô đất, dựng tạm thành 6 ngôi chùa nhỏ bằng lá cây thốt nốt để thờ. Nhà vua lúc bấy giờ đóng đô ở
Ăng-co nghe được tin ấy nghĩ rằng: Phật không chịu ở Ăng-co nữa mà muốn đi về Buôn-múc, Buôn-đay, trái tim của nước Campuchia. Nhà vua quyết định dời đô về đây, sai đắp núi cao, dựng lại 6 ngôi chùa bằng đá. Nơi đây trên bến dưới thuyền dễ làm ăn, dân tề tựu về ngày một đông. Vua cho khai phá khu rừng phía tây lấy đất trồng lúa và đắp đê chung quanh để chống lũ lụt. Từ đó, đất này có tên là Phnôm Pênh-tức núi Bà Pênh.
Thế là chỉ một tuần vừa hành quân vừa chiến đấu, quân ta đã vào Phnôm Pênh, giành lại trong tay Pôn Pốt - Iêng Xa-ri một thủ đô cổ kính, không để cho chúng kịp đốt phá. Nhưng trong thành phố, những nhóm nhỏ lẻ của địch có thời cơ là phản kích nên các cuộc đấu súng vẫn diễn ra trong những ngày đầu tiếp quản.
Tôi gặp Phạm Hoa, Đại đội trưởng Đại đội 5 thuộc Tiểu đoàn 2 thiết giáp. Đại đội chỉ còn 4 chiếc M113. Trong lúc đang nói chuyện với Hoa, tôi nghe từ một chiếc M113 phía sau có giọng miền Trung rất trẻ. Tôi đến, một chiến sĩ khoảng mười chín đôi mươi đang lau khẩu đại liên trên nóc M113. Hỏi thì biết là Đinh Văn Thương, quê ở Tuyên Hóa, Quảng Bình, nhập ngũ năm 1978, vừa học xong lớp lái xe thiết giáp ngắn ngày ở căn cứ Sóng Thần. Hôm qua, xe của Thương chạy một mạch từ TP Hồ Chí Minh đến đây. Hôm sau tôi đến nơi đại đội của Phạm Hoa đang triển khai đội hình chiến đấu, thấy có chiếc thiết giáp PT85 và hai xe tải của địch còn bốc khói âm ỉ cạnh đấy. Hoa báo cáo: Địch trên ba chiếc xe này rất ngoan cố chống cự, ta hy sinh một, bị thương ba. Tôi lặng người, chiến sĩ hy sinh lại chính là Đinh Văn Thương. Hoa kể, lúc xe của ta tiến đến phía sau Hoàng cung, cũng vừa lúc ba chiếc xe này theo đường bờ sông chạy lên. Nếu chặn đánh chúng ở đấy thì đạn bắn qua lại có thể làm tổn hại đến quần thể kiến trúc của Hoàng cung, nên anh quyết định quay vòng lên phía bắc định chặn đầu bắt sống. Ta chạy đường vòng còn nó chạy đường thẳng nên đuổi không kịp, hai bên vừa đi vừa bắn, đến gần cầu mới hạ diệt được nó. Vừa lúc ấy có thêm Đại đội trưởng Thành, mặt sạm nắng gió, đi đến. Tôi hỏi: Đại đội 21 của cậu đang tiến thẳng ra Sân bay Pô-chen-tông cơ mà? Thành không trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi mà trình bày việc một chiến sĩ đại đội anh vừa hy sinh: Vừa rồi, anh em ta chỉ dùng súng bộ binh bắn chứ không dùng pháo xe tăng, sợ đạn có sức công phá lớn làm đổ vỡ công trình, nhà cửa. Đại đội 5, Đại đội 21 cũng vậy, ta chỉ dùng súng bộ binh nên mới bị thiệt hại về người như thế.
Trước đó, tôi nghe trợ lý tác chiến quân đoàn báo cáo lại trường hợp cũng tương tự ở một đại đội thuộc Trung đoàn 12. Đại đội đó vây bắt địch mà không dùng B40, DKZ bắn, bởi hướng bắn về phía Đài Độc Lập. Bảo vệ dân, bảo vệ công trình văn hóa, kiến trúc của bạn, tư lệnh quân đoàn đã quán triệt đến các chỉ huy đơn vị từ trước, song vận dụng cụ thể lúc chiến đấu như thế nào là do ý thức của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Vậy là Quân tình nguyện Việt Nam đã không tiếc xương máu sang giúp bạn khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt, khi tiếp quản thủ đô đã luôn có ý thức cao để bảo vệ những đền đài nghệ thuật, những phố phường dù không có người ở. Đó là nghĩa cử cao cả của một đội quân cách mạng chân chính! Ngay lúc đó, tôi bàn kế hoạch bố trí đội hình tác chiến của Tiểu đoàn 2 xe tăng và căn dặn các đại đội trưởng phải sớm đưa thi hài hai chiến sĩ vừa hy sinh về nước”…
Câu chuyện chiếm hết gần buổi sáng. Thiếu tướng Bùi Cát Vũ còn tâm sự với tôi là ông viết được truyện ngắn đầu tay từ lúc còn rất trẻ, thế rồi qua hai cuộc kháng chiến bận cầm súng mà không còn thì giờ cầm bút, bây giờ dự định văn chương thời trai trẻ bỗng nhiên quay trở lại...
Sau này, tôi nghe tin ông đã mấy lần đề đạt lên cấp trên nguyện vọng nghỉ hưu sớm để có thì giờ viết văn. Ông đã lần lượt xuất bản nhiều tác phẩm như: “Quê hương”, “Đường vào Phnôm Pênh”, “Gió bụi Sài Gòn”, “Trong rừng chiến khu D”... Riêng cuốn tự truyện viết cho thiếu nhi “Gió bụi Sài Gòn” đã được nhận giải thưởng cao của Hội Nhà văn Việt Nam.
Thiếu tướng, nhà văn Bùi Cát Vũ qua đời tháng 3-2002, hưởng thọ 78 tuổi.
PHẠM QUANG ĐẨU