Phần đông trong số đó đều nhập ngũ, nhiều người sau này trở thành tướng lĩnh, cán bộ trung, cao cấp trong và ngoài quân đội.
Truyền thống của nhà trường được tô thắm bởi nhiều thế hệ, trong đó có 2 thầy giáo và 28 học sinh đã anh dũng hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và bảo vệ Tổ quốc. Một trong số đó là liệt sĩ Chu Tấn Quang, học sinh khóa 6.
Chu Tấn Quang sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Ba Chu Tấn Quang là ông Chu Tấn Đạt, người đã góp công xây dựng nên ngành quân giới Nam Bộ hồi kháng chiến 9 năm, mẹ là bà Trần Thị Ngọc Lưu, cán bộ miền Nam tập kết.
    |
 |
Chu Tấn Quang trên đường hành quân vào Nam năm 1973. Ảnh do gia đình nhân vật cung cấp |
Tháng 10-1965, khi chiến tranh chống Mỹ vào giai đoạn ác liệt, Chu Tấn Quang được tuyển chọn vào Trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi. Những năm tháng học tập, rèn luyện trong môi trường quân đội đã tạo dựng trong anh bản lĩnh của người chiến sĩ cách mạng. Cuối năm 1971, đang là sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Quang xung phong tòng quân. Vì ba đang tại ngũ nên Quang chưa phải đi đợt này nhưng anh nằn nì với mẹ: Chờ học xong sợ sẽ hết giặc!
Ngày 22-12 năm ấy, Quang đạp xe chở mẹ xuống Cầu Giấy, vào trường gặp thầy Thanh (Chủ nhiệm Khoa Công nghiệp) để ký vào đơn đồng ý cho Quang nhập ngũ. Ít ngày sau, Quang khoe: “Hôm nay, con cùng anh em đã chích máu ký vào lá cờ truyền thống của Đoàn trường. Đợt này, 300 sinh viên các trường sư phạm cùng 30 thầy giáo được biên chế về cùng một tiểu đoàn huấn luyện. Vui lắm! Anh trai của Hiền, bạn gái con ở phố Nhà Thờ, cũng đi đợt này, mai tập trung...”.
Sáng 3-1-1972, các “tân binh sư phạm” được thầy cô, bạn bè và gia đình tiễn lên đường. Trong số người đi tiễn có bóng Hiền đứng vẫy. Ngày 17-1-1973, đơn vị lên đường vào Nam. Tết năm ấy, anh viết thư về báo tin đơn vị đang hành quân dọc Trường Sơn. Vượt qua gian khó, “tiểu đoàn sinh viên” vào tới Nam Bộ, bổ sung cho Sư đoàn 5. Quang được biên chế vào Đại đội 2, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 2.
Tuy đã thất bại nặng nề, giặc Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris về
Việt Nam, rút quân về nước nhưng chúng vẫn dùng ngụy quyền tiếp tục chiến tranh với kế hoạch “tràn ngập lãnh thổ”, lấn chiếm vùng giải phóng. Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan. Do có thành tích trong chiến đấu, Quang được đề bạt Trung đội phó. Cuối năm 1973, tại Bù Bông (thuộc tỉnh Quảng Đức), trung đội anh được giao chốt giữ trên một quả đồi. Anh em thay nhau trực chiến, đánh trận trước, nghỉ trận sau.
Đêm hôm trước vừa dẫn anh em đi dẹp mũi đánh nống ra của địch, thường thì hôm sau được nghỉ nhưng có đồng đội bị thương, anh xung phong trực thay. Báo động, có 3 tiểu đoàn ngụy dàn quân lấn chiếm! Quang chỉ huy trung đội dàn trận, chặn đứng mũi tiến công chính diện của địch. Thừa thắng xốc tới, Quang xách AK xông vào đội hình giặc.
Đồng đội thương vong gần hết, tương quan lực lượng chênh lệch. Không may, anh đã lọt vào vòng vây. Quang nã gần hết 3 băng đạn mà địch vẫn đông như kiến. Vòng vây siết chặt. Bóp cò, nghe tiếng “cạch” khô khốc, hết đạn! Lạnh lùng bật chốt giương lê, anh sẵn sàng đánh giáp lá cà. Không quên “thất tuyệt kỹ” trong bài “Đâm lê quyết thắng” được thầy Trần Sinh dạy ngày còn ở trường thiếu sinh quân, cùng bản lĩnh tôi luyện trong chiến đấu, Quang đã dùng lưỡi lê và báng súng hạ 3 tên địch.
Vừa hạ được tên thứ tư cũng là lúc tên thứ năm xô tới từ sau, Quang chỉ kịp ngồi thụp xuống, thân nó nhào qua đầu. Và cuộc vật lộn bắt đầu... Đã mất quá nhiều sức trong trận giáp chiến, Quang vẫn dùng hết sức quật ngã và đè lên người tên địch, rồi cắn mạnh vào cổ hắn. Tên địch cong người lên thở hắt. Hành động dũng cảm của chiến sĩ Giải phóng quân khiến những tên còn lại khiếp vía tháo chạy.
Xa xa nghe điểm xạ AK của quân ta đến chi viện... Đúng thời khắc ấy, một tên địch nấp sau bụi cây nhắm Quang siết cò. Tay phải Quang chỉ kịp đưa lên nơi trái tim, rồi tắt thở. Trời chạng vạng, lúc đó khoảng 6-7 giờ tối 29-12-1973.
... Sau ngày 30-4-1975, Trung tá Chu Tấn Đạt được giao nhiệm vụ tiếp quản trường quân cụ Gò Vấp của quân đội Sài Gòn. Tháng 8-1975, Trung đoàn 2, Sư đoàn 5 tổ chức tổng kết chiến dịch, ông được mời dự cùng Chính ủy Trần Đăng Thạch.
Trước lễ mừng công, đơn vị cử cán bộ mang theo sơ đồ mộ chí, đưa ông đi tìm mộ con trai là liệt sĩ Chu Tấn Quang. Mới có hai năm mà trên mộ đã đùn lên một tổ mối lớn. Đào lên, thấy thi thể Quang còn nguyên vẹn, bàn tay phải vẫn đặt nơi trái tim. Mọi người thắp hương, an táng Quang lại vị trí cũ. Khi chia tay, đơn vị hẹn ngày bốc mộ tập thể sẽ báo cho gia đình. Rồi chiến tranh biên giới, Sư đoàn 5 lại lên đường.
Sau ngày ông Đạt mất, gia đình cùng đồng đội nhiều lần cất công lên Bù Bông tìm mộ phần của Chu Tấn Quang. Nhưng thời gian trôi qua, cảnh xưa đổi thay, việc tìm kiếm trở nên vô cùng khó khăn. Cho đến giờ, 45 năm đã trôi qua vẫn không hề có một thông tin gì về anh...
Cứ vào dịp 27-7 hằng năm, mấy người bạn thuở thiếu sinh quân chúng tôi lại đến thăm gia đình và thắp hương cho Quang. Di ảnh bạn đặt bên cạnh bảng vàng “Tổ quốc ghi công” cùng Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Ba. Trong số kỷ vật ít ỏi để lại được đơn vị bàn giao cho gia đình còn lá thư cuối cùng anh viết:
“Đêm 16 tháng Giêng 1973 - 2 giờ 30 phút
Ba má kính mến!
Sớm mai con lên đường đi chiến đấu. Thời gian tương đối gấp, đó là yêu cầu của chiến trường. Con không kịp báo tin về nhà cho ba má biết trước. Trước khi đi, con hứa với ba má sẽ luôn luôn làm tròn nhiệm vụ, làm đúng những điều dạy dỗ của ba má. Con sẽ xứng đáng là con của ba má...”.
TRẦN KIẾN QUỐC (*)
(*) Cựu học sinh Trường Văn hóa quân đội-Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi (1965-1970)