Đội du kích Ba Tơ

QĐND-Trung tướng Phạm Kiệt, tên thật là Phạm Quang Khanh, sinh ngày 10-1-1910 tại làng An Phú, xã Tịnh Minh, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Nhân dân Sơn Tịnh kiêu hãnh và tự hào mỗi khi nhắc đến Khởi nghĩa Ba Tơ. Ban lãnh đạo Khởi nghĩa Ba Tơ cũng như các chiến sĩ tham gia cách mạng trong đêm 10-3-1945 rạng sáng 11-3-1945 ấy, gần như hầu hết là con em của Sơn Tịnh: Trương Quang Giao, Phạm Kiệt, Nguyễn Đôn, Trần Quý Hai, Võ Phấn, Võ Bẩm, Võ Thứ, Phạm Hương… Khởi nghĩa Ba Tơ đã cướp đồn, phá tan chính quyền phản động, giành thắng lợi hoàn toàn, lập nên chính quyền mới của nhân dân, thành lập lực lượng vũ trang cách mạng.

 

Trung tướng Phạm Kiệt.

Sáng 13-3-1945, Đội du kích Ba Tơ chính thức được thành lập, có tổ chức mít tinh trước đông đảo quần chúng nhân dân, đồng bào các dân tộc ít người trong vùng Ba Tơ. Ông Phạm Kiệt được Tỉnh ủy giao làm chỉ huy trưởng Đội du kích Ba Tơ. Tại đây, ông Phạm Kiệt đã tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân, kêu gọi nhân dân đoàn kết, quyết tâm chiến đấu bảo vệ chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng. Chập tối 14-3-1945, toàn Đội du kích Ba Tơ đã làm lễ tuyên thệ tại hang Én (suối Loa) với lời thề: “Quyết tử vì Tổ quốc!”.

Thắng lợi của cuộc Khởi nghĩa Ba Tơ có sức cổ vũ động viên to lớn đối với phong trào cách mạng miền Trung cũng như cả nước. Đội du kích Ba Tơ phát triển lên núi, xuống đồng bằng, vùng duyên hải, lập nên các chiến khu và căn cứ vững chắc, trở thành lực lượng nòng cốt tiến tới Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi trên toàn tỉnh Quảng Ngãi, sớm nhất cả nước.

Ba kỷ vật đặc biệt và những lần bên Bác Hồ

Cuối năm 1949, đầu năm 1950, ông Phạm Kiệt được điều ra Việt Bắc chuẩn bị đi Trung Quốc bồi dưỡng thêm về kiến thức quân sự. Ra Việt Bắc, bất ngờ ông được Bác Hồ gọi lên gặp. Sau này, ông kể lại kỷ niệm về lần đầu tiên gặp Bác: “… Khi vừa bước vào lán nơi Bác làm việc, Bác đứng dậy và vẫy tay: - Chú Tê Đơ vào đây! Thật bất ngờ, đến bí danh ở tận Khu V, mà Bác cũng biết và nhận ra ngay con người trước mặt mình.

Sau khi hỏi thăm sức khỏe, gia đình, tình hình Khu V, Bác nói:

- Nghe các đồng chí nói chú xin ở lại chiến đấu rồi đi học sau. Bác cũng nghĩ nên như thế.

Và Bác trìu mến, dí dỏm nói:

 - Chú mà đi học về thì còn giặc đâu mà đánh!…”.

Sau Chiến dịch Biên giới, một đồng chí tặng Bác khẩu Cacbin chiến lợi phẩm. Bác Hồ gọi Phạm Kiệt lên, trao cho khẩu Cacbin số 585440 và nói: “… Chú là người xông pha trận mạc, cần thứ này hơn Bác, Bác tặng chú đấy”.

Hiện nay, khẩu Cacbin 585440 đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam (Hà Nội).

Đầu năm 1954, vợ và ba con của ông Phạm Kiệt ra Việt Bắc, Bác Hồ lại tặng phu nhân Phạm Kiệt là bà Trần Thị Ngộ một khẩu súng lục hiệu mô-de (mauser) 6,35mm số 707271 và dặn: “Cô dùng nó để tự vệ và bảo vệ các cháu cho chú yên tâm nơi chiến trường nhé! …”.

Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Đại tướng, Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Anh Kiệt là người lúc đó đề nghị tôi xem xét lại kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh! Chỉ có Kiệt mới dám nói như thế! …”. Sau khi rút pháo ra an toàn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đến thăm đơn vị pháo binh. Nhà văn Siêu Hải vốn là lính pháo binh, tác giả cuốn “Voi đi”, nhớ lại: “Anh Văn nói, nếu vạn nhất sự việc không thành thì cuộc kháng chiến của ta còn kéo dài bao lâu nữa? Dân tộc ta còn phải khổ đến bao giờ nữa?”.   

“Nói thẳng, nói thật cũng phải dũng cảm không kém gì xông pha trên chiến trường”. – Ông Phạm Kiệt nhiều lần nhắc lại điều đó với đồng đội và các con của mình.

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, trung tuần tháng 5-1954, Bác Hồ gọi Phạm Kiệt lên và tặng ông một chiếc radio. Bác vui vẻ nói: “Đây là chiếc đài mà Đờ Cát dùng suốt Chiến dịch Điện Biên Phủ. Chú Vương Thừa Vũ tặng Bác, nay Bác tặng lại chú vì đã có công đặc biệt xuất sắc góp phần thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ!”.

Chiếc đài này hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam.

Đầu năm 1957, Phạm Kiệt được Bác và Quân đội giao nhiệm vụ làm Cục trưởng Cục Bảo vệ và Bí thư Đảng ủy Tổng cục Chính trị. Ông được phong quân hàm Đại tá năm 1958. Đầu năm 1960, Đại tá Phạm Kiệt sang nhận nhiệm vụ mới là Thứ trưởng Bộ Công an.

Tháng 4-1961, Phạm Kiệt được thăng quân hàm Thiếu tướng và được giao làm Tư lệnh kiêm Chính ủy lực lượng Công an nhân dân vũ trang. Tháng 4-1974, ông được thăng quân hàm Trung tướng.

Riêng đối với tướng Phạm Kiệt, Bác Hồ có cảm tình và niềm tin đặc biệt. Sau này, ông Vũ Kỳ nhớ lại: Bác Hồ có lẽ làm việc, bàn việc, tâm sự với tướng Phạm Kiệt chủ yếu là trong các chuyến đi công tác mà hai người luôn ở bên nhau.

Ông Vũ Kỳ và Thiếu tướng Nguyễn Tấn (nguyên Phó tư lệnh Bộ đội Biên phòng, là Thư ký cho tướng Phạm Kiệt nhiều năm) kể lại: Ngày Bác Hồ về thăm quê hương Nam Đàn, sau khi Bác hỏi thăm và nói chuyện với đồng bào, vì quá lâu chưa được gặp Bác Hồ, bà con quê Bác vây chặt, không làm cách nào đưa Bác ra xe ô tô được. Để bảo đảm sức khỏe cho Người, chớp thời cơ, tướng Phạm Kiệt khoác áo mưa trùm kín Bác, cõng Bác ra chiếc xe Pô-bê-đa dành cho ông và thư ký, bảo vệ. Xe chạy đưa Bác đi, còn xe chở Bác thì vẫn kẹt ở lại với đồng bào!

Trung tướng Phạm Kiệt (giữa) nghe Ban chỉ huy Đồn Biên phòng 34 (Hải Phòng) báo cáo phương án tác chiến. Ảnh tư liệu.

Mùa xuân 1969, trong chuyến đi cuối cùng, Bác Hồ gọi tướng Phạm Kiệt cùng thăm Quân chủng Phòng không – Không quân, lên Vật Lại, Ba Vì trồng cây đa. Đó là kỷ niệm sâu đậm nhất trong những lần được ở bên Bác của tướng Phạm Kiệt.

Lần ấy, ông thấy Bác yếu nhiều, đi lại không còn nhanh nhẹn như vốn có. Cùng trải tấm bạt, ngồi ăn cơm ở dưới gốc đa giữa rừng Ba Vì bạt ngàn ngày ấy, có Bác Hồ, đồng chí Nguyễn Lương Bằng, tướng Phạm Kiệt, đồng chí Vũ Kỳ - Thư ký của Bác. Bác Hồ chậm rãi ăn từng miếng nhỏ cơm nắm với muối vừng, thịt rim, mắt Bác nhìn xa xăm ra rừng cây phía trước như trĩu nặng nỗi niềm. Bác hỏi tướng Phạm Kiệt về tình hình miền Nam, tình hình lực lượng Công an nhân dân vũ trang và gia đình…

Ô tô đuổi theo máy bay

Đầu năm 1973, tướng Phạm Kiệt được vinh dự tháp tùng Chủ tịch Phiden Castro và Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào thăm vùng giải phóng Quảng Trị, mặc dù lúc đó, những bệnh tật do gần 15 năm tù đày đã bắt đầu quấy phá sức khỏe ông. Ngô Quang Bảo, người lái xe cho tướng Phạm Kiệt từ 1971 đến 1975, kể:

- Đúng hôm đó ra sân bay gặp bão, nên đoàn hoãn không đi nữa, lo chuyến bay không an toàn. Xe của Bộ Công an đưa cụ Kiệt đi sang sân bay Gia Lâm, lại quay về trước, xem tình hình cầu Long Biên giao thông thế nào, có an toàn không để đón đoàn về. Cụ Kiệt về Bộ làm việc được một tiếng, mới điện thoại hỏi xem đoàn đã về đến đâu? Không ngờ được tin đoàn không hoãn, tiếp tục bay vào Quảng Bình, là do Chủ tịch Phiden Castro vì nóng lòng muốn vào thăm Quảng Trị nên vẫn quyết tâm đi, không thay đổi kế hoạch. Máy bay đã cất cánh từ 3 giờ chiều. Nhận tin báo, cụ Kiệt bảo anh Quảng (lái xe) và tôi thay nhau lái xe, quyết tâm đuổi theo máy bay. Xe cụ Kiệt đi từ Hà Nội, đến 4 giờ sáng hôm sau thì nhập được vào đoàn ở Hồ Xá (Vĩnh Linh). Có điều cánh lái xe chúng tôi trẻ khỏe, không sao cả. Nhưng, cụ Kiệt do quá lo lắng căng thẳng, đường sá thời chiến tranh xóc xấu, ảnh hưởng đến sức khỏe cụ, cuối năm ấy cụ phát bệnh.

Sau chuyến công tác dài ngày này, sức khỏe của tướng Phạm Kiệt ngày càng giảm sút, Đảng và Nhà nước đưa ông sang Cộng hòa dân chủ Đức điều trị. Về nước, ông được giáo sư Tôn Thất Tùng và nhiều giáo sư, bác sĩ nổi tiếng khác điều trị, nhưng do tuổi cao, sức khỏe có hạn, Trung tướng Phạm Kiệt từ trần vào hồi 13 giờ, ngày 23-1-1975.

Trung tướng Phạm Kiệt là đại biểu Quốc hội các khóa III, IV. Đảng và Nhà nước truy tặng Trung tướng Phạm Kiệt Huân chương Hồ Chí Minh ngay trong ngày ông ra đi về cõi vĩnh hằng, ngày 23-1-1975. Ngày 25-7-2012, Nhà nước ta truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho Trung tướng Phạm Kiệt. 

TRẦN MINH THU