QĐND - Khi thực hiện biên soạn cuốn hồi ký của Trung tướng Lư Giang, cán bộ tiền khởi nghĩa, nguyên Tư lệnh Quân khu Thủ Đô, chúng tôi đã vô cùng xúc động trước cuộc đời chiến đấu anh dũng đầy gian khổ, hy sinh của ông. Nhưng đặc biệt xúc động khi trong hồi ức của mình, Trung tướng Lư Giang kể về lần được gặp Bác Hồ khi ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108-Quân khu 5, cuối năm 1953, trong đợt chỉnh huấn chuẩn bị cho Chiến dịch Điện Biên Phủ và lần gặp trước khi ông vào chiến trường miền Nam, đó cũng là lần cuối cùng được gặp Bác. Chiến tranh qua đi, biết bao đổi thay dâu bể nhưng vẹn nguyên trong trái tim vị tướng vẫn là những lời lẽ ân cần, giản dị của Bác mà ông luôn ghi nhớ, mãi đi theo mỗi bước đường chiến đấu gian khổ. Trong hồi ức của mình, ông nhớ lại:

… Đầu năm 1953, giữa lúc Mặt trận Khu 5 đang chuẩn bị chiến dịch lớn, tôi được lệnh của Trung ương gấp rút chuẩn bị để ra Bắc. Nhận mệnh lệnh, mừng lo lẫn lộn. Ra Bắc khi chiến dịch sắp mở, việc chuẩn bị còn rất nhiều mặt thiếu, những người ở lại phải lo. Ra Bắc lần này, tôi có linh tính được gặp Bác Hồ, sẽ báo cáo với Bác những gì mà quân và dân Khu 5 gửi gắm cho tôi. Ngày lên đường thật gấp rút, cùng đi với tôi có nhiều đồng chí khác. Mọi việc phải tuyệt đối giữ bí mật, đoàn chúng tôi hành quân bộ vượt núi băng rừng không kể ngày đêm. Sau 45 ngày hành quân hết sức vất vả, chúng tôi đã đến nơi. Việt Bắc đây rồi, đường vào An toàn khu hiện ra phía trước... Hình ảnh thân thương hiện ra trước mắt, nỗi nhớ quê hương, gia đình trong 7 năm xa cách bỗng trỗi dậy. Không một tin tức, không một cánh thư của Nhã Nam, Bố Hạ, Yên Thế, Bắc Giang… nơi chiến trường xưa, nơi đầu tiên tôi theo cách mạng.

Cuối tháng 9-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp để thông qua đề án tác chiến do Tổng Quân ủy đệ trình. Sau Chiến dịch Nà Sản, bộ đội ta tiến bộ nhiều mặt, phương hướng chiến lược của ta là tìm chỗ yếu của địch mà đánh, buộc địch phải phân tán lực lượng. Ta chủ trương phản công địch trên nhiều chiến trường, nhiều hướng, tạo nên những chuyển biến quan trọng trong cuộc kháng chiến. Lần đầu tiên, 200 cán bộ cao cấp khắp chiến trường hội tụ về Việt Bắc. Hy vọng lớn lao của mọi người lúc này là được gặp Bác Hồ, được gặp đồng chí Tổng Tư lệnh.

Trung tướng Lư Giang và Đại tướng Võ Nguyên Giáp,năm 1983. Ảnh do nhân vật cung cấp

Lớp tập huấn này, nhiệm vụ của chúng tôi là biên soạn, tổng kết kinh nghiệm, học tập, trao đổi với nhau qua những chặng đường chiến đấu ở các chiến trường và cách đánh khác nhau, phong phú nhiều mặt, giữ vững căn cứ, chống càn, xây dựng và củng cố hậu phương... để rút ra những bài học kinh nghiệm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tổng tư lệnh. Thấm thoắt đã hết một tháng, lớp huấn luyện kết thúc. Chúng tôi bình bầu được 7 đồng chí xuất sắc nhất, tôi được vinh dự đứng trong số đó. Buổi lễ tổng kết long trọng diễn ra, các đồng chí lãnh đạo lớp học đã có mặt. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Bác đến! Mọi người reo ầm lên... Bác bước vào hội trường vừa tươi cười, vừa giơ tay vẫy ra hiệu mọi người trật tự. Riêng tôi nhìn Bác không chớp mắt. Tôi cố nhớ thật sâu hình dáng Người để khi trở về Khu 5 nói với anh em, với đồng chí, đồng bào về vị Cha già kính yêu.

Bác giản dị và nhanh nhẹn, vẫn bộ quần áo như ngày đi khảo sát Chiến dịch Biên Giới, chòm râu đã điểm bạc, đôi mắt sáng ngời trìu mến nhìn khắp lượt chúng tôi như người cha kính yêu đối với các con đi xa về. Bác được mời lên hàng ghế Chủ tịch đoàn với các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Thái.

Mỗi cá nhân xuất sắc vinh dự được Bác gắn Huy hiệu Lê-nin. Bác hỏi tôi: “Chú tên là gì?”. Tôi xúc động quá không nói nên lời. Trời mùa thu mà sao lúc này mồ hôi tôi toát ra, lưỡi cứng lại, mặt đỏ lên. Bao lời định nói, định thưa với Bác mà lúc này cứ lúng túng mãi. Mãi giây lâu, tôi cố nói với Bác: “Thưa Bác, cháu là Lư Giang-Trung đoàn trưởng Trung đoàn 108, Khu 5”. Thấy tôi nói giọng Bắc mà lại ở Khu 5, Bác lại hỏi: “Chú quê ở đâu?”. Lẽ ra tôi phải thưa với Bác: “Cháu quê ở Bắc Giang, chỉ huy bộ đội Nam tiến những ngày đầu cách mạng”, nhưng tôi chỉ nói được với Bác một câu: “Cháu quê ở Bắc”. Bác cười đôn hậu. Tôi mạnh dạn hơn, trước cái nhìn trìu mến, thân thương như của một người cha. Bác lại hỏi: “Đồng bào trong đó có khổ lắm không?”. “Thưa Bác! Đồng bào vùng tự do không khổ lắm, đời sống mỗi ngày có dễ chịu hơn”. “Thế anh em chiến sĩ có đoàn kết không? Đồng bào các dân tộc có đoàn kết không? Bộ đội và đồng bào thế nào?”. “Thưa Bác! Đoàn kết tốt ạ. Đồng bào Khu 5 gửi cháu lời thăm Bác”. Bác nói tiếp: “Bác nghe ban lãnh đạo lớp học báo cáo chú học tốt nên Bác tặng chiếc huy hiệu”.

Lớp học bế mạc, chúng tôi chia tay nhau về đơn vị. Tôi về làm đặc phái viên của Bộ Quốc phòng. Sau đó, tình hình chung phát triển nhanh ở các chiến trường, tôi chưa kịp về thăm gia đình thì nhận được mệnh lệnh trở lại công tác tại Khu 5. Nhớ lời Bác dặn dò, quân và dân Khu 5 đã đập tan chiến dịch Át-lăng của Na-va, đập tan 22 tiểu đoàn cơ động tinh nhuệ của địch, góp phần chia lửa với Mặt trận Điện Biên Phủ. Hội nghị Giơ-ne-vơ kết thúc, một nửa đất nước sạch bóng quân thù, tôi cùng anh em chiến sĩ tập kết ra Bắc, tôi về công tác tại Binh chủng Pháo binh. Tuy đã nhiều lần được gặp Bác, nhưng có một lần mãi in sâu vào lòng và tôi cũng không ngờ rằng đó là lần cuối cùng được gặp Người.

Năm 1964, ở miền Nam, sau khi quân và dân ta lần lượt bẻ gãy các chiến dịch trong chiến tranh đặc biệt của Mỹ-ngụy, Bộ Quốc phòng cử một đoàn cán bộ quân đội cấp cao vào tăng cường. Trước khi lên đường vào Nam, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng tổ chức một bữa cơm thân mật tiễn chân tại Nhà khách Quân đội, số 33 Phạm Ngũ Lão. Trong Bộ Chính trị, các đồng chí Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh đến tiễn và dặn dò anh em. Trước bữa ăn 5 phút thì Bác đến.

Bác hỏi luôn: “Sắp ăn chưa, thôi ta vừa ăn vừa nói chuyện”. Bác rất tiết kiệm thời gian. Dừng lại, Bác nói tiếp: “Các chú được Trung ương cử vào tăng cường cho đồng bào miền Nam. Từ 10 năm nay, đồng bào miền Nam rất vất vả và anh dũng đấu tranh, đã đánh thắng chiến tranh đặc biệt của Mỹ-ngụy. Bây giờ các chú được tăng cường cùng đồng bào miền Nam để đánh thắng chiến tranh cục bộ, để thực hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, thống nhất đất nước. Trước đây, ta đánh bại thực dân Pháp, bây giờ đánh Mỹ khác và khó hơn nên cần khiêm tốn học tập đồng bào miền Nam”.

Chúng tôi hiểu lời căn dặn này có ý nghĩa là từ thực tiễn sinh động ở chiến trường, nhân dân miền Nam luôn sáng tạo, cần ra sức học tập và khiêm tốn vận dụng cho linh hoạt, chớ tự kiêu, tự mãn. Trong khi ăn cơm, Bác hỏi tôi, đang ngồi bên cạnh và cũng là hỏi chung anh em. Bác hỏi: “Các chú đã chụp ảnh với các cô chưa?”. Im lặng. Không ai dám trả lời. Tôi mạnh dạn: “Dạ thưa Bác, cũng đã chụp chung rồi ạ!”. “Thế chú có mặc quân phục không?”. “Dạ thưa Bác! Cháu mặc thường phục”. “Ừ đúng rồi, nếu mặc quân phục thì để ở nhà”. Bác lại hỏi tiếp: “Thế các chú có định viết nhật ký không?”. “Thưa Bác! Anh em có nghĩ tới hoặc định viết”. “Các chú không nên viết thì hơn. Thế các chú có định mang theo tài liệu gì không?”. Mọi người, kể cả tôi chưa kịp trả lời thì Bác lại nói luôn: “Không nên mang! Tất cả đều ghi nhớ ở trong lòng”.

Sau cùng, Bác rưng rưng nói: “Các chú vào miền Nam cùng đồng bào và Đảng bộ miền Nam, xây dựng và chiến đấu cho tốt để Bác sớm vào miền Nam thăm đồng bào, các chú phải tích cực giúp Bác gửi lời thăm đồng bào trong đó”.

Chúng tôi lặng đi trước những suy nghĩ giản dị của Người.

Tôi không thể ngờ được đó là lần cuối cùng gặp Bác.

Cuộc chiến đấu ngày một khốc liệt, mỗi khi gặp khó khăn, gian khổ, chúng tôi luôn nhắc nhớ lời Bác và cũng là nguyện vọng thiêng liêng của Bác, sức mạnh của chúng tôi được nhân lên gấp bội.

Tháng 9-1969, chúng tôi bàng hoàng nghe tin Bác mất. Trong lễ truy điệu Người tại chiến trường năm 1969 và cho đến bây giờ, trong lòng chúng tôi luôn trĩu nặng tâm tư vì chưa làm Bác thỏa lòng, được sớm vào thăm đồng bào miền Nam. Đó cũng là điều tôi day dứt nhất.

PHÙNG VĂN KHAI