Năm ấy, tôi đã lên 10 tuổi và cho đến bây giờ vẫn không thể quên sự khủng khiếp của nạn đói. Đồng điền bị sâu keo phá hoại thê thảm, lúa trong làng bị mất trắng, mỗi người chúng tôi chỉ được ăn cháo loãng chừng một tháng, sau đó ăn lúa lép rang lên, giã nhỏ, ngậm hồi lâu rồi mới nuốt nổi. Năm đó, những trái cây mọc dại ngoài đồi như sim, trâm, chà là, chua ngút... cũng không ra được quả nào. Cuối cùng, dân làng chúng tôi phải ăn trái đủng đỉnh, ăn vào vừa rát vừa ngứa cổ. Sau 4 tháng đói triền miên thì đến vụ khoai mì (sắn). Nhưng do lâu ngày không có gì lấp đầy chiếc bụng đói, cả nhà tôi đều bị say củ khoai mì. Đợi mãi đến vụ chiêm năm đó được mùa, cả làng háo hức gặt lúa về. Mọi người đem gạo mới nấu cháo loãng nhưng mỗi người cũng chỉ được ăn một chén.
Đêm 15 rạng sáng 16-8-1945, tại điếm canh của làng bỗng nổi lên tiếng trống mõ vang theo nhịp ngũ liên. Đây là hiệu lệnh báo động khi có cháy, có giặc cướp vào làng hay có sự biến bất thường. Nhưng tiếng trống mõ này có vẻ dồn dập, vội vã, náo nức hơn thường lệ. Theo lệ làng, tất cả trai tráng từ 18 tuổi trở lên đều mang gậy gộc và có mặt ngay tại điếm canh của làng. Sau tiếng trống mõ dồn dập liên hồi là tiếng loa gọi dân làng Kẻ Trảy ra điếm canh họp mặt.
    |
 |
Thế hệ trẻ tỉnh Hà Tĩnh đến thăm và nghe lão thành cách mạng kể chuyện khởi nghĩa giành chính quyền ở quê hương. Ảnh: Báo Hà Tĩnh |
Tiếng loa này không phải giọng ông mõ của làng mà là giọng của người trẻ. Thấy sự lạ, không chỉ trai tráng mà cả làng đều nháo nhào chạy ra từ các lối xóm đến điếm canh. Bên trong điếm, đèn đuốc sáng trưng, vách phên gian giữa treo một bức hình đen trắng. Đó là chân dung một người đàn ông lớn tuổi, trán cao, mắt sáng, râu thưa, tóc bạc. Mọi người bàn tán, có người bảo là Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc, có người nói là Cậu Côn, con cụ phó bảng Sắc bên Nam Đàn, Nghệ An. Dưới chân dung dán một tờ giấy khổ lớn: “Lời hiệu triệu của Mặt trận Việt Minh!”. Đến lúc này, dân làng mới biết người phát thanh vào loa là anh Phạm Cầu. Anh cùng một số thanh niên của làng đang học ở trường Collège Vinh, giác ngộ cách mạng, theo Mặt trận Việt Minh, về vận động dân làng nổi dậy giành chính quyền về tay nhân dân tại địa phương.
Tờ mờ sáng, trước mô đất ở điếm canh, một lá cờ màu đỏ rực rỡ, với ngôi sao vàng lấp lánh tung bay trước gió sớm. Lần đầu tiên trong đời, dân làng tôi thấy lá cờ của Mặt trận Việt Minh. Dưới chân cột cờ là chiếc án thư. Trên đó bày hương hoa và đèn nến thắp sáng, người lớn xếp thành hàng, trẻ nhỏ quây quanh. Anh Phạm Cầu đứng trước mọi người, mời bà con làm lễ chào cờ. Anh hô: “Chào cờ...! Chào!” và thực hiện động tác chào cờ, mọi người làm theo anh. Tiếp đó, ông Nguyễn Hoát khăn đóng, áo the, quần trắng, ôm theo hộp gỗ, bước lên trước bàn thờ Tổ quốc, vái 3 vái và trịnh trọng đặt hộp gỗ lên hương án. Ông là lý trưởng, xin thôi chức, trao chính quyền lại cho Việt Minh và dân làng. Sau khi xin thôi chức, ông nhẹ nhàng mở hộp ra, lấy chiếc triện đồng trao cho anh Phạm Cầu. Anh giơ cao chiếc triện đồng và dõng dạc tuyên bố: “Chính quyền của làng Kẻ Trảy ta từ ngày hôm nay thuộc về tay nhân dân! Xin bà con ta bầu ngay một người tạm thời làm thôn trưởng!”.
    |
 |
Quần chúng nhân dân giành chính quyền ở thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, tháng 8-1945. Ảnh tư liệu |
Mọi người đồng thanh: “Bầu anh Phạm Cầu! Bầu anh Phạm Cầu! Bầu anh Phạm Cầu!”. Rồi đồng thanh vừa hô vừa vỗ tay râm ran. Ngay sau đó, anh Phạm Cầu thay mặt dân làng và Mặt trận Việt Minh của làng lập ra đội dân quân gồm tất cả trai tráng trong làng do anh Phạm Hưng, cũng là học sinh trường Collège Vinh làm đội trưởng. Ông Bếp Thạc, nguyên là lính khố đỏ của Pháp, đóng quân ở đồn Ngọc Hà (Hà Nội) trở về huấn luyện quân sự vào những đêm trăng sáng. Các hội Phụ lão cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc được thành lập. Tôi còn nhớ, Hội Phụ nữ cứu quốc lúc đó là chị Đinh Thị Tường (có anh là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương) làm Hội trưởng ở thôn. Sau đó chị thoát ly và trở thành Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh Hà Tĩnh. Bà con làng tôi nhớ mãi hành động của chị là cưới vợ khác cho chồng còn mình thì thoát ly, đi hoạt động cách mạng. Người phụ trách Đội Nhi đồng cứu quốc của thôn lúc đó là chị Phạm Thị Cúc. Chị dạy chúng tôi tập múa, tập hát những bài về cách mạng và Bác Hồ. Chúng tôi được sắm cho mũ ca lô và bộ quần áo màu nâu để mặc mỗi khi đi sinh hoạt Đội.
Hôm sau, dân quân cùng dân làng tôi và các làng Đông Lỗ (Kẻ Trúa), Bạch Sơn (Kẻ Sơn), Hàm Lại (Kẻ Rái), Xuân Trì (Kẻ E), Kẻ Gôi (Gôi Vị) mít tinh tại một cánh đồng thuộc làng Xuân Trì. Đám trẻ con chúng tôi cũng đi theo người lớn tham gia mít tinh. Đoàn người tham gia mít tinh đông vô kể, có lẽ phải mấy nghìn người. Giàn sân khấu được dựng lên, cờ, băng rôn đỏ rợp trời. Sau cuộc mít tinh, đội dân quân các làng mang gậy gộc, giáo mác diễu hành, lên giành chính quyền huyện Hương Sơn, thị trấn Phố Châu cách đó khoảng 10km.
Từ đó không khí làng tôi rạo rực khôn xiết. Trẻ con hát những bài ca cách mạng suốt ngày. Ông Miện Ân nhà giàu, có vườn rộng, hiến làng mấy sào đất để làng dựng trụ sở. Mỗi tối tại trụ sở làng, thanh thiếu niên, nhi đồng tụ tập sinh hoạt hát hò. Những điệu hò, ví, giặm đối qua đáp lại giữa nam và nữ, làm cho tối nào cũng như ngày hội. Đêm đêm, dân quân canh gác, tuần tra, giữ yên ấm xóm làng. Cửa ngõ nhà nào nhà nấy đều mở mà không có vụ trộm cắp nào. Chúng tôi được cắp sách đến trường, không còn sợ lính lệ tay cầm roi như trước nữa. Những ngày Cách mạng Tháng Tám tươi đẹp, đẹp cả lòng người và cả cảnh làng quê!
NGUYỄN KHẮC QUÁN