Theo phân công, ngay sau hội nghị, đồng chí Phan Đăng Lưu lên đường ra Bắc báo cáo và xin chỉ thị của Trung ương. Trong thời gian chờ đợi, từ tháng 3-1940, công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa được tiến hành ráo riết. Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ mở rộng diễn ra tại Mỹ Tho vào tháng 7-1940 với sự tham dự của đại diện 19/21 tỉnh, đã tập trung thảo luận, trả lời 3 câu hỏi lớn liên quan đến khởi nghĩa là: Lấy vũ khí ở đâu để trang bị cho quân khởi nghĩa? Phải có những điều kiện nào mới phát động khởi nghĩa? Khởi nghĩa ở Nam Kỳ có thể tiến hành trước hay phải chờ cả nước? Cuối cùng, hội nghị tán thành những nguyên tắc về khởi nghĩa, đồng thời nhấn mạnh, ta phải có đủ lực lượng thì mới khởi nghĩa. Bấy giờ, do chưa có đủ lực lượng nên hội nghị giao cho Thường vụ Xứ ủy nghiên cứu, quyết định thời điểm có thể và cần phải khởi nghĩa.

Giữa lúc đó, do chiến tranh Pháp-Thái Lan (nổ ra tháng 10-1940) và làn sóng phản đối việc đưa lính Việt Nam lên biên giới Campuchia-Thái Lan diễn ra mạnh mẽ đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác binh vận của Đảng ở Nam Kỳ phát triển. Hơn nữa, Pháp bại trận, đã đầu hàng phát xít Đức, là thời cơ tốt để ta làm khởi nghĩa. Vì vậy, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ Tạ Uyên quyết định ra chỉ thị khởi nghĩa.

leftcenterrightdel

Tháng 7-1940, căn nhà của bà Lê Thị Lợi (Năm Dẹm) ở ấp Tân Thuận (Tân Hương, Mỹ Tho) là nơi diễn ra Hội nghị Xứ ủy Nam Kỳ bàn về việc chuẩn bị khởi nghĩa. Ảnh tư liệu

Tại miền Bắc, sau khi nghe đồng chí Phan Đăng Lưu báo cáo và phân tích, đánh giá tình hình, Trung ương nhận định rằng thời điểm này, điều kiện chủ quan và khách quan đều chưa chín muồi nên yêu cầu hoãn cuộc dự định khởi nghĩa ở Nam Kỳ. Thế nhưng chưa kịp truyền đạt ý kiến của Trung ương thì đồng chí Phan Đăng Lưu đã bị bắt ngay khi vừa về tới Sài Gòn. Lệnh khởi nghĩa đã phát đi không thể thu hồi được nữa.

Kế hoạch khởi nghĩa ở Sài Gòn được ấn định phải nổ ra vào đúng 12 giờ đêm 22-11-1940, nhưng do có gián điệp của địch chui được vào hàng ngũ của Đảng, chúng biết trước kế hoạch, ngày giờ khởi nghĩa nên đã ra tay ngăn chặn, phá hoại. Binh lính người Việt ở Sài Gòn bị cấm trại, súng bị khóa trên giá không thể nổi dậy nổ súng báo lệnh khởi nghĩa. Việc phá kho súng phân phát cho lực lượng khởi nghĩa từ ngoại thành kéo vào phục ém sẵn ở Sài Gòn như ý định của ta cũng không thực hiện được.

Tuy nhiên, nhiều tỉnh, thành phố khác ở Nam Kỳ vẫn diễn ra khởi nghĩa, mạnh mẽ nhất là ở Gia Định-Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long. Bấy giờ, đồng chí Võ Văn Kiệt (sau này là Thủ tướng Chính phủ) là đảng viên, được chọn tham gia đội tự vệ chiến đấu xung kích tiến công chiếm chính quyền quận lỵ Vũng Liêm, Vĩnh Long. Sinh thời, nhớ về sự kiện lịch sử này, đồng chí Võ Văn Kiệt kể: “Tháng 11-1940, Liên tỉnh ủy Hậu Giang do đồng chí Quản Trọng Hoàng làm Bí thư đã trực tiếp chỉ đạo khởi nghĩa ở Vĩnh Long, trọng điểm là quận Vũng Liêm. Chúng tôi đánh chiếm được dinh hành chính cũng là dinh quận trưởng Vũng Liêm ngay trong đêm 22, rạng sáng 23-11. Sau khi chiếm quận lỵ, thu nhiều súng, chị Hồng Hoa (tức Nguyễn Thị Hồng, tên thật là Hà Thị Lan), Bí thư Quận ủy Vũng Liêm phái tôi và một số anh em tự vệ xung kích mang súng đạn tiếp viện cho lực lượng khởi nghĩa đánh đồn Nước Xoáy, rồi tiếp viện cho bộ phận ở cầu Ông Me. Theo kế hoạch, cầu này phải được đốt phá để ngăn quân Pháp từ thị xã kéo xuống Vũng Liêm. Nhưng khi chúng tôi đến nơi, thấy cầu còn nguyên vẹn, một số đồng chí lãnh đạo cùng cơ sở của ta bị bắt”.

Theo các tài liệu lịch sử cùng lời kể của nhiều nhân chứng thời bấy giờ, cơ bản ta không đánh, chiếm được tỉnh lỵ. Khởi nghĩa diễn ra ở cấp xã và một số quận là chính, riêng quận lỵ Vũng Liêm là ta chiếm được hoàn toàn. Ở quận Hóc Môn, ta lấy được súng của lính, chỉ chiếm thành công tầng 1 dinh quận trưởng. Trước khi quân Pháp ở Gia Định lên và ở Tây Ninh xuống, quân khởi nghĩa rút về Truông Mít rồi giải tán. Thực tế trong quận mà ta đánh chiếm quận lỵ, số xã khởi nghĩa cũng không nhiều và không đều, chưa phát động được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia khởi nghĩa. Bộ máy cai trị của địch có bị ảnh hưởng nhưng không đáng kể. Cuộc khởi nghĩa không thành công, bị dìm trong bể máu.

leftcenterrightdel

Sau khi tấn công dinh quận trưởng Hóc Môn ngày 23-11-1940, cầu Thầy Thưởng là đường rút quân của các chiến sĩ Nam Kỳ khởi nghĩa. 

leftcenterrightdel
 Bản đồ các mũi tiến quân trong khởi nghĩa Nam Kỳ tại Hóc Môn.

Những năm 1940-1941, quyết thực hiện triệt để chủ trương tiêu diệt cộng sản, thực dân Pháp thẳng tay đàn áp, bắt bớ, giết hại, kể cả giội bom và bắn phá vào các vùng dân cư. Lúc cao điểm, số người bị bắt, giết lên đến gần 6.000 người. Khắp hang cùng ngõ hẻm, đâu đâu cũng thấy bọn mật thám, hội tề rình rập bắt giết người tình nghi, làm tiền và vu cáo trả thù cá nhân. Xóm làng không còn cả tiếng chó sủa vì thực dân Pháp ra lệnh giết hết chó để quân ngụy và tay sai tự do rình rập từng nhà. Chúng tàn sát không chỉ những người cộng sản mà cả nhân dân, triệt hạ nhiều làng mạc. Nhà tù quá tải, chúng dùng nhà kho, trường học... làm khám. Ngay giữa thị xã Mỹ Tho, nhiều công sở biến thành khám giam mấy trăm người.

Ở Sài Gòn, bọn thực dân còn giam những người bị bắt dưới sà lan. Khi đầy quá, chúng hất người xuống biển. Lại có nơi, chúng bắt những người cách mạng tự đào hố sâu chôn anh em xuống, chỉ để ló đầu lên trên mặt đất. Chúng bắt chém đầu hay bắn chết những cán bộ cộng sản, xỏ dây thép vào tay từng đoàn người cách mạng đem thả ngoài biển... Hầu hết các đồng chí lãnh đạo của Đảng dự Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa I) bị bắt, giam cầm và giết hại. Chưa bao giờ lực lượng cách mạng của ta bị thiệt hại nặng nề như vậy. Tại căng Tà Lài-nơi từng giam giữ nhiều đồng chí cốt cán của Đảng bộ Nam Kỳ, viên quan Pháp phụ trách tỉnh Biên Hòa tuyên bố: “15 năm nữa cộng sản cũng không ngóc đầu lên được”.

Thế nhưng chúng đã lầm. Ngọn lửa cách mạng bùng lên từ Nam Kỳ khởi nghĩa vẫn rực cháy trong trái tim những người yêu nước. Sinh thời, Thượng tướng Trần Văn Trà (1919-1996), nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, trong giai đoạn hoạt động bí mật sau Nam Kỳ khởi nghĩa có bí danh là Lê Văn Thắng, kể: “Trong những ngày đen tối của khủng bố trắng đó, một số đảng viên cộng sản thoát được chết chóc và tù đày đã không quản hiểm nguy, tìm mọi cách chắp nối lại tổ chức cơ sở đảng và đoàn thể quần chúng. Chúng tôi luôn kiên định niềm tin, còn một người cộng sản thì Đảng còn, còn nhân dân thì cách mạng còn. Sức sống mãnh liệt của Đảng, của tinh thần cách mạng trong nhân dân bị áp bức là vĩnh cửu.

Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ với những đau thương, mất mát và bài học kinh nghiệm trả bằng xương máu là bản hùng ca bi tráng trong lịch sử đấu tranh cách mạng của nhân dân Nam Bộ nói riêng và cả nước nói chung. Đồng thời, đó cũng là động lực giúp chúng tôi vượt qua mọi nghịch cảnh, mọi khó khăn, trở ngại. Người trước ngã xuống, người sau đứng lên nối nhau viết tiếp trang sử hào hùng của dân tộc”.

Thực tế đã chứng minh, chưa đầy 5 năm sau, lịch sử Việt Nam đã mở sang trang mới. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 do Đảng lãnh đạo đã thành công trên phạm vi cả nước. Nước Việt Nam độc lập ra đời.

TS NGUYỄN QUANG TẠO