Thầy Trần Đình Hượu sinh ra trong một gia đình điển hình cho một kiểu nhà nho của thời bấy giờ. Cụ thân sinh ông học giỏi nhưng không đi thi để làm quan mà chọn làm thuốc chữa bệnh, cứu người. Còn ông tham gia thanh niên cứu quốc ở địa phương từ năm 1945. Từ năm 1959-1963, ông là nghiên cứu sinh ngành triết học tại Đại học Tổng hợp Lomonosov (Liên Xô), nhưng do tình hình lúc ấy, ông không được bảo vệ luận án đã viết xong mà phải về nước. Từ năm 1963 đến khi nghỉ hưu, ông giảng dạy ở Khoa Ngữ văn. Sau khi nghỉ hưu, ông được Pháp mời sang giảng dạy ở Đại học Provence, tham gia nghiên cứu một số vấn đề về tư tưởng và văn hóa truyền thống.
Nhìn lại, cuộc đời ông có nhiều điều đặc biệt: Khi mọi việc của một nghiên cứu sinh đã hoàn thành thì không được bảo vệ do diễn biến thời cuộc. Nghiên cứu lịch sử tư tưởng Trung Hoa và một số học thuyết tư tưởng Trung Quốc cổ đại như Mặc Tử, Lão Trang... nhưng lại được giao dạy văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông cần cù làm việc, thực hiện các công việc được giao và âm thầm làm những việc mình cho là cần thiết cho xã hội. Ông hành xử như một kẻ sĩ, lấy chân lý làm trọng, không xu thời, không dùng quyền uy, thậm chí quyền uy trí tuệ, học thuật để bắt người khác phải theo mình. Điều này ông nhất quán trong suốt cuộc đời nghiên cứu và giảng dạy của mình.
    |
 |
Phó giáo sư Trần Đình Hượu.
|
Sau một loạt bài về văn học Việt Nam trung cận đại công bố từ đầu thập niên 1970, giới nghiên cứu lần đầu tiên ngạc nhiên về những kết luận “đi ngược lại đám đông” của ông. Thực ra không phải bây giờ người ta mới biết đến ông vì trong các bài giảng về lịch sử tư tưởng, về văn học và Nho giáo... ở trường đại học, sinh viên và đồng nghiệp đã thấy lạ và hấp dẫn bởi những cách tiếp cận vấn đề mới của ông. Ông đối thoại với đám đông, về những điều cơ bản nhất của các vấn đề thuộc về lịch sử tư tưởng, văn hóa truyền thống, về Nho giáo như một hệ tư tưởng và những ảnh hưởng của nó.
GS Nguyễn Kim Đính đã đặt tên cho bài viết về ông là “Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản” (câu thơ trong bài “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu), không phải chỉ nói về chuyện hạc vàng đi mất không trở lại mà ví trí lực của ông như chim hồng, chim hộc, bay không cần bầy đàn, không lụy sự khen chê của đồng loại nhưng luôn hướng về phía trước: “Anh lẳng lặng, cần mẫn theo đuổi những gì anh suy nghĩ, đằm chín với niềm tự tin sâu sắc và với cốt cách Nho phong khẳng khái được hấp thụ từ nền văn hóa “ngang bằng, sổ ngay” vốn là truyền thống gia đình”.
Còn ông thì nói rằng: “Muốn tìm hiểu một cái gì đó ta phải phân tích cơ sở tồn tại của nó... Chỉ có điều là tôi phân tích không giống người ta”. Ông tu thân, tự nhiệm đúng tinh thần Nho giáo cách vật, trí tri, chính tâm (đến với sự vật, hiểu biết sự vật, lòng ngay thẳng). Chỉ có điều bấy giờ người ta cho rằng cách tư duy ấy vì nó lạ quá, khác quá, họ không hiểu được. Vì vậy mà gần chục năm, ông không có bất cứ công bố chính thống nào không phải vì ông không có gì để công bố mà người ta chưa “tiêu hóa” nổi những suy nghĩ mới của ông. Đến khi ông in một số cuốn thì mọi người mới biết đến ông và ông đã làm thay đổi nhiều điều trước đây tưởng như “đương nhiên” là thế. Nó làm thay đổi hẳn một cách nhìn nhận về nhiều di sản văn hóa dân tộc.
Không giống những người khác chỉ nêu ra những hạn chế với những mặt trái của truyền thống như một kết quả, một sản phẩm, thì ông nhìn những điều ấy từ nguồn gốc xã hội, tư tưởng, văn hóa và chỉ ra cả những khuyết tật của một số giá trị truyền thống. Ông lý giải điều này trong các bài giảng chuyên đề mà sau này in thành sách “Đến hiện đại từ truyền thống”. GS Nguyễn An, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, khi đọc quyển này đã nói với tôi: “Mình là một nhà vật lý, mình không hiểu lắm về khoa học xã hội. Nhưng đọc quyển này mình vỡ vạc ra nhiều điều. Nó rất có ích cho những người làm quản lý. Vì đọc các tác phẩm của anh Hượu, mình hiểu được cả nguyên nhân của thành công và cả những thất bại của chúng ta một cách có lý luận, có cơ sở khoa học”. Một người viết được những điều có ích như thế, tưởng cũng mãn nguyện lắm rồi.
Khi đề thi đại học có chọn một nhận định của Trần Đình Hượu về truyền thống và yêu cầu phân tích nó, rất nhiều thí sinh đã không làm được bài vì không hiểu hoặc hiểu sai. Vì chuyện này, có người nói: “Ông này viết thế chỉ để cho nhà nghiên cứu, tại sao lại đưa vào chương trình phổ thông, tại sao lại đưa ra làm đề thi?”.
Cũng dễ hiểu cho sự phàn nàn này vì thực ra đoạn trích ấy không khó hiểu, mà do chúng ta quá quen với thái độ tâng bốc những “giá trị truyền thống”, chưa có cái nhìn nghiên cứu, đối thoại, phân tích nó trong dòng chảy lịch sử, không nhìn thấy những tác động của nó trong hiện tại. Truyền thống dân tộc, kể cả những yếu tố trong quá khứ được coi là tiến bộ nhưng trong đời sống hiện tại lại bị đào thải do không còn phù hợp. Và những yếu tố mới lại nảy nở, phát triển thành giá trị. Đó là quy luật. Thầy Trần Đình Hượu đã nhìn nhận, phân tích điều đó vì ông luôn đối thoại với nó, nhận thức nó từ góc nhìn khách quan và khoa học, không chính trị hóa nó, không giáo điều...
    |
 |
Thầy Trần Đình Hượu (đứng giữa) cùng các học trò. Ảnh tư liệu |
Chịu khó khăn chung của hoàn cảnh thời kỳ của mình, cho đến khi mất năm 1995, Trần Đình Hượu không một lời kêu ca. Nhà ông hồi còn ở Lò Đúc hay khi đã về Quỳnh Lôi đều ở tầng 4. Đến thăm ông vào mùa hè, tôi thấy ông ngồi cởi trần, bàn viết là mấy thanh gỗ chắc lấy từ một hòm đồ nào đó bào nhẵn, bắt vào tường, lúc viết thì mở ra, khi ông cần nằm nghỉ thì lại hạ xuống. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy ông ta thán nửa lời. Hàng hóa phân phối cho cán bộ hồi ấy là cái lốp xe, bộ quần áo lót, bánh xà phòng... ông không nhận mà nhường cho người khác. Lúc nào ông cũng vui vẻ, dễ gần, thậm chí xuề xòa nhưng khi hỏi chuyện chuyên môn thì vô cùng nghiêm túc và chặt chẽ.
Còn một chi tiết nữa, tôi muốn nói thêm để hiểu nhân cách ông. Khi có nhà xuất bản muốn in quyển “Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại”, ông đưa bản thảo cho tôi và dặn: “In toàn bộ, không bỏ đi phần nào, không biên tập lại theo cách cắt gọt tư tưởng”. Nhà xuất bản không đồng ý nên việc không thành. Tôi lấy làm tiếc nhưng ông bảo: “Những chuyện ấy bình thường. Ngay cả bây giờ, nếu viết lại một vấn đề nào trong đó mình cũng có thể viết khác vì đã nghĩ khác. Nhưng mình muốn giữ nguyên nội dung quan điểm như thế để người ta nếu đọc, sẽ biết mình ở thời điểm ấy thế nào. Khi bài viết của mình trở thành đối tượng nghiên cứu của người khác thì mình cũng phải trung thực”.
Nghe ông nói vậy, tôi chỉ còn biết cảm phục. Ông là một người cộng sản đích thực, suốt đời làm việc ở Khoa Ngữ văn, tôi chưa thấy ông giữ chức vụ nào, dù là tổ trưởng chuyên môn. Nhưng tài năng, trí tuệ ông lừng lững trong lòng đồng nghiệp, học trò. Giới nghiên cứu nhớ ông như nhớ đến một trong những người đi đầu đổi mới, sáng tạo. Suốt đời ông chỉ đi một hướng: Đến sự thực, kiếm tìm chân lý.
PGS, TS PHẠM QUANG LONG