Từ chiến sĩ bảo vệ nội địa ở Thái Nguyên
Tìm đến nhà riêng của Đại tá Nguyễn Mai Soa ở số 257, phố Phan Bội Châu, phường Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, tôi tò mò muốn biết vì sao khi nghỉ hưu, ông không về quê ở xã Nga My, huyện Phú Bình (nay là xã Điềm Thụy), tỉnh Thái Nguyên, mà ở lại gắn bó với vùng đất Tây Nguyên. Nhưng ngay từ mở đầu câu chuyện, tôi biết trong lòng ông vẫn đau đáu với quê hương “Thủ đô gió ngàn”. Ông giới thiệu những đặc sản: Chè móc câu Thái Nguyên là người nhà gửi biếu; dịp lễ, Tết, có người từ quê Thái Nguyên vào, ông còn nhờ mua bánh chưng Bờ Đậu, bánh ngải, cơm lam Định Hóa, nem chua Đại Từ... Những thứ mà ông đã thích ăn từ những ngày sinh sống và công tác ở Thái Nguyên.
Đại tá Nguyễn Mai Soa sinh năm 1944, trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng. Các cụ thân sinh của ông từng hăng hái tham gia khởi nghĩa và bảo vệ chính quyền cách mạng ở Thái Nguyên mùa thu năm 1945. Tháng 2-1960, ông nhập ngũ vào lực lượng Công an nhân dân vũ trang (nay là BĐBP) tỉnh Thái Nguyên. Sau 3 tháng huấn luyện, có nhân thân tốt, ông được lựa chọn đi đào tạo hạ sĩ quan, rồi biên chế về K53, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Thái Nguyên, phụ trách một tiểu đội làm nhiệm vụ bảo vệ khu công nghiệp Thái Nguyên. Ngày ấy, công việc bảo vệ nội địa rất quan trọng, vì địch tung nhiều toán thám báo, gián điệp phá hoại chính trị, cơ sở hạ tầng kinh tế của miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
    |
 |
Đồng chí Nguyễn Mai Soa cùng đại biểu Bộ đội Biên phòng và các cơ quan tỉnh Lạng Sơn đón Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Km0 Hữu Nghị Quan, ngày 15-9-1989. Ảnh do nhân vật cung cấp |
“Tôi nỗ lực phấn đấu, công tác tốt, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được bầu là “Chiến sĩ giỏi” nên đơn vị tiếp tục cử đi học Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam năm 1963. Cũng năm này, tôi được kết nạp Đảng. Truyền thống quê hương cách mạng “Thủ đô gió ngàn” càng thôi thúc tôi phấn đấu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ học tập. Tháng 6-1966, tốt nghiệp ra trường, tôi được phong quân hàm Thiếu úy, điều động về làm Trung đội trưởng Trung đội Kinh lý-Cơ động của Công an nhân dân vũ trang tỉnh Hà Giang. Tôi được bầu làm Bí thư Chi bộ của Trung đội. Trong thời gian này, tôi đã lập được một số chiến công. Điển hình như chống biệt kích nhảy dù xuống khu vực Bắc Quang (Hà Giang) năm 1968; bảo vệ mục tiêu, chống biệt kích, thám báo địch ở Thông Nguyên, Thanh Thủy (Hà Giang)... những năm 1968-1969. Với thành tích xuất sắc, tôi được bầu là Chiến sĩ thi đua. Do có năng lực vận động, thuyết phục quần chúng, tôi được lựa chọn đi dự lớp bồi dưỡng cán bộ chính trị, công tác tuyên huấn do Cục Chính trị Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang tổ chức năm 1969. Học xong, tôi được điều động đến công tác ở các đơn vị Công an nhân dân vũ trang Khu tự trị Việt Bắc, trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”, Đại tá Nguyễn Mai Soa kể.
Đến góp phần xây dựng Tây Nguyên
Năm 1975, đất nước thống nhất, Nguyễn Mai Soa được điều động về Trường Sĩ quan Công an nhân dân vũ trang (nay là Học viện Biên phòng) làm công tác giáo vụ. Sau đó, ông được điều động vào xây dựng Trường Hạ sĩ quan Biên phòng 3 (tiền thân của Trường Cao đẳng Biên phòng hiện nay) mới thành lập. Tiếp đó, ông được bổ nhiệm Phó chỉ huy trưởng, Tham mưu trưởng Trung tâm Huấn luyện BĐBP; Trưởng phòng Huấn luyện-Giáo vụ Trường Trung-Cao cấp Biên phòng. Tháng 8-1988, ông được bổ nhiệm Phó chỉ huy trưởng, Tham mưu trưởng BĐBP tỉnh Lạng Sơn. “Trong thời gian này, ta và Trung Quốc đang dần bình thường hóa quan hệ, chuẩn bị mở cửa biên giới. Tôi được giao nhiệm vụ phụ trách chỉ huy đơn vị công binh dò mìn, mở đường an toàn lên Đồng Đăng; bảo đảm an toàn cho nhiều đoàn cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước lên thăm Lạng Sơn, trong đó có đoàn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến Km0 Hữu Nghị Quan vào tháng 9-1989...”, ông Soa nhớ lại.
Bước ngoặt để Đại tá Nguyễn Mai Soa gắn bó với Tây Nguyên là vào tháng 8-1991 khi nhận Quyết định của Bộ Nội vụ bổ nhiệm Phó chỉ huy trưởng, Tham mưu trưởng BĐBP tỉnh Đắk Lắk. “Tháng 1-1991, tôi nhận quyết định về làm Phó thanh tra Bộ tư lệnh BĐBP. Nghĩ rằng sau nhiều năm công tác xa nhà, giờ ở Hà Nội, gần vợ con hơn, nhưng chưa được bao lâu, lại lên đường đi xa. Lần này vào Tây Nguyên, địa bàn mới lạ, giao thông đi lại khó khăn, không biết sẽ khắc phục thế nào. Vừa nhận bàn giao chưa đầy một tháng, thì tháng 10-1991, tôi được chỉ định Quyền chỉ huy trưởng (tháng 12-1991 là Chỉ huy trưởng) BĐBP tỉnh và tại Đại hội Đảng bộ BĐBP tỉnh Đắk Lắk, được tín nhiệm bầu làm Bí thư Đảng ủy BĐBP tỉnh Đắk Lắk. Ngày ấy, tỉnh Đắk Lắk có đường biên giới dài, hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn. BĐBP là lực lượng trực thuộc Bộ Nội vụ nên năm 1994, tôi là Chỉ huy trưởng BĐBP tỉnh, kiêm nhiệm Phó giám đốc Công an tỉnh Đắk Lắk (đến tháng 12-1995). Công việc phải làm rất nhiều và tôi đã phát huy trí tuệ tập thể, đoàn kết, đồng lòng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng BĐBP tỉnh vững mạnh toàn diện; huấn luyện, nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và chất lượng đời sống bộ đội; góp phần xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, an ninh khu vực biên giới...”, Đại tá Nguyễn Mai Soa cho biết.
Công việc trước mắt mà Chỉ huy trưởng Nguyễn Mai Soa quyết tâm thực hiện trong lực lượng BĐBP tỉnh Đắk Lắk là ổn định đời sống, “an cư, lạc nghiệp” đối với cán bộ, chiến sĩ các đồn biên phòng. Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, trên tuyến biên giới nói chung, Nam Tây Nguyên nói riêng, căn bệnh sốt rét còn hoành hành. Không ngày nào là không có ca cấp cứu người bệnh sốt rét ác tính. Đường sá xa xôi, cơ sở y tế thiếu thốn. Bộ đội lại thiếu nước, không có nước sạch phục vụ sinh hoạt, phải dùng nước mặt, nước khe suối. Doanh trại, nhà cửa xuống cấp nghiêm trọng, bộ đội phải ở chung với mối, mọt, bọ chét, gián, rệp; mùa đông lạnh, bộ đội không đủ chăn đắp, có lúc rét quá, cả đêm không ngủ được... Vì thế, dịch bệnh càng phát sinh. Đại tá Nguyễn Mai Soa đề nghị với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đắk Lắk lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, địa phương, công ty trên địa bàn giúp đỡ BĐBP tỉnh. Cụ thể, ông đã trực tiếp làm việc với Đoàn địa chất 407 hỗ trợ khoan giếng lấy nước cho bộ đội sinh hoạt. Việc khoan giếng cũng rất công phu, phải là người có kinh nghiệm để xác định vị trí có nước để khoan. Có nước thì cần phải trữ được nước, vậy là ông liên hệ với Công ty Xây lắp 303 Đắk Lắk hỗ trợ kinh phí xây bể. Rồi ông chỉ đạo cơ quan nghiên cứu, xây dựng thế bố trí các đơn vị, đồn biên phòng phù hợp, báo cáo Bộ tư lệnh BĐBP phê duyệt và liên hệ địa phương hỗ trợ cấp đất. Theo đó, các đồn và đơn vị (trung tâm, căn cứ) biên phòng tỉnh bố trí theo tuyến Bắc-Trung-Nam. Từ năm 1992 đến 1998, toàn bộ doanh trại của 14 đồn biên phòng tỉnh được xây mới khang trang, có giếng và bể chứa nước sạch sinh hoạt (sau này nhiều đơn vị còn thụ hưởng nước máy ở địa phương cung cấp); đơn vị nào cũng được hỗ trợ máy phát điện Đông Phong, ti vi và thiết bị nghe nhìn thiết yếu. Từ đó, dịch bệnh được đẩy lùi, bộ đội yêu mến đơn vị, yên tâm làm nhiệm vụ.
“Để làm được những việc đó, chúng tôi được sự đồng tình ủng hộ, giúp đỡ rất lớn của Tỉnh ủy, các ban, ngành, đoàn thể ở địa phương, đặc biệt là Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk Huỳnh Văn Cần khi đó. Chúng tôi đề nghị Tỉnh ủy, UBND tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể, có nghị quyết cụ thể trong việc phối hợp, kết nghĩa với BĐBP bảo vệ an ninh biên giới, tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; xây dựng các mô hình điểm từng mặt, toàn diện ở địa phương và trong lực lượng BĐBP tỉnh, trong đó có mô hình “rào rấp biên giới” để chống vượt biên, xâm nhập bất hợp pháp, chống buôn lậu và tội phạm; đề phòng hoạt động trở lại của bọn FULRO... Đồng thời, đề xuất với Tỉnh ủy, UBND tỉnh tổ chức di dân, hỗ trợ dân ra sinh sống ở khu vực biên giới, tạo “thế trận lòng dân” vững chắc. BĐBP còn chủ động tăng gia sản xuất, xây dựng các “căn cứ hậu cần”, nhờ Sở Nông nghiệp (nay là Sở Nông nghiệp và Môi trường), các trung tâm giống cây trồng, vật nuôi hỗ trợ giống. Từ kinh nghiệm tăng gia sản xuất, BĐBP lại giúp các hộ dân đồng bào dân tộc làm kinh tế gia đình, lựa chọn giống cây, vật nuôi phù hợp, góp phần cải thiện đời sống nhân dân”, Đại tá Nguyễn Mai Soa cho biết.
Năm 1998, Đại tá Nguyễn Mai Soa nghỉ công tác và nhận sổ hưu vào năm 2000. Nghỉ hưu nhưng không nghỉ việc, ông tích cực tham gia hoạt động ở tổ dân phố, khu dân cư khối phố 13 phường Tân Tiến, TP Buôn Ma Thuột (nay là phường Buôn Ma Thuột), tỉnh Đắk Lắk. Ông làm Bí thư Chi bộ khối phố 13, nhiệm kỳ 2002-2005; là Phó bí thư Đảng ủy phường Tân Tiến, nhiệm kỳ 2005-2010. Năm 2013, thành lập Hội Hữu nghị Việt Nam-Campuchia tỉnh Đắk Lắk, ông được tín nhiệm bầu làm Phó chủ tịch Hội, đến năm 2022 mới nghỉ. Hiện nay, tuy tuổi cao, song trí tuệ minh mẫn, sức khỏe còn tốt, ông vẫn tham gia sinh hoạt Đảng, các hội, đoàn thể và đến các trường học, cơ quan nói chuyện truyền thống nhân những ngày lễ trọng đại của đất nước.
Quá trình công tác, cống hiến của Đại tá Nguyễn Mai Soa đã được Đảng, Nhà nước, Quân đội ghi nhận với 2 Huân chương Chiến công hạng Nhất; 1 Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất, 1 Huân chương Kháng chiến hạng Nhì; Huy chương Quân kỳ Quyết thắng... Khi làm Bí thư Chi bộ khối phố 13 và Phó bí thư Đảng ủy phường Tân Tiến, ông được tặng 12 giấy khen các cấp, được công nhận là báo cáo viên cao cấp của Thành ủy Buôn Ma Thuột. Năm 2023, ông nhận Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng...
HƯƠNG HỒNG THU