Bà Xuân nhìn tôi ái ngại vì đã nhiều lần tôi liên hệ để được nghe câu chuyện “tình yêu người lính báo vụ” của ông, giờ gặp được rồi, không khéo lại về không! Cuối cùng ông nể bà, giúp tôi. Nhưng ông bắt bà ngồi cạnh ông để bổ sung chi tiết, vì “trong tình yêu này, bà là một nửa quan trọng và cũng là nhân chứng tuyệt vời”...

Năm 1955, ở cơ quan Văn phòng Trung ương Đảng có đôi trai tài, gái sắc. Anh là Nguyễn Văn Đại, hạ sĩ quan quân đội, lính báo vụ, 23 tuổi. Anh Đại dáng người thư sinh, tác phong nhanh nhẹn nhưng cẩn trọng, đôi mắt đượm buồn, khi giao tiếp với mọi người thì toát lên sự nhiệt thành, tự tin. Chị là Nguyễn Thị Minh Xuân, nhân viên bảo mẫu nhà trẻ, 20 tuổi, đẹp đôn hậu. Xuân là em ruột của đồng chí Nguyễn Khắc Hữu-Trưởng tiểu ban Vô tuyến điện, trực tiếp phụ trách anh Đại. Trong môi trường công tác mà lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với cách mạng đã như một yêu cầu mặc định ấy, Đại và Xuân để ý đến nhau theo cái nhẽ thông thường “yêu vì nết, trọng vì tài”.

leftcenterrightdel
Vợ chồng Trung tá, cựu chiến binh Nguyễn Văn Đại.

Đại sinh ra ở xã Ngọc Thụy (nay là phường Ngọc Thụy, quận Long Biên, TP Hà Nội). Năm 1949, quân đội tuyển người bổ sung lực lượng giúp việc các cơ quan Trung ương, Đại trúng tuyển. Anh lên Việt Bắc, vào bộ phận giúp việc cơ quan Bộ Tổng tư lệnh và được đi đào tạo nhân viên báo vụ. Năm 1950, Đại phụ trách đài vô tuyến ở Văn phòng Chính phủ, đến năm 1955 thì chuyển sang Tiểu ban Vô tuyến điện thuộc Văn phòng Trung ương Đảng.

Còn Xuân, cô gái được sinh ra ở khu Dư Hàng Kênh, TP Hải Phòng; tư chất thông minh và có chí tiến thủ nhưng nhà nghèo nên không được đi học. Khi Xuân lên 10 tuổi, phong trào “diệt giặc dốt” theo luồng gió cách mạng tràn về khu phố quê hương. Đêm đêm, Xuân cầm đèn dầu đi học chữ và sớm vượt qua “cổng mù” trên đường cái quan của làng, dần tới đọc thông viết thạo. Nhờ đó, khi Xuân đủ tuổi đi “thoát ly”, anh Nguyễn Khắc Hữu liền xin cấp trên cho cô vào cơ quan mình làm bảo mẫu nhà trẻ. Xuân quyết thanh toán bậc “đọc thông viết thạo” nên theo học bổ túc văn hóa và tốt nghiệp cấp 1 (tương đương cấp tiểu học bây giờ). Năm 1958, sau 14 tháng thử thách trong đoàn tuổi trẻ Thủ đô đi khai hoang miền Tây Bắc, Xuân trở về Hà Nội, đúng lúc Xưởng Phim truyện Việt Nam cần một người làm thủ quỹ, yêu cầu có trình độ học vấn tốt nghiệp cấp 1 trở lên... Xuân được nhận vào vị trí ấy và tiếp tục học bổ túc cấp 2. Cùng thời gian đó, Đại hoàn thành bổ túc văn hóa cấp 3.

Năm 1960, “song hỷ” đến với hai người. Họ cưới nhau và cùng thi đỗ vào trường chuyên nghiệp, anh theo học đại học vô tuyến điện, chị học trung cấp kế toán. Tốt nghiệp ra trường, học vấn, tình yêu và tư chất thông minh đã giúp đôi vợ chồng trẻ hoàn thành tốt nhiệm vụ, được cấp trên tin tưởng.

Có một điều, lúc nhận lời yêu anh Đại, chị Xuân mới biết anh chưa phải là đảng viên. Anh trai của chị giải thích: “Mẹ cậu ấy làm nghề hát ca trù!”. Khi đặt vấn đề đính hôn, Xuân không khỏi băn khoăn! Nay mai về giới thiệu với gia đình, nhỡ có ai hỏi về điều này thì trả lời thế nào cho thông? Anh Hữu thương em, liền bày cách: “Cô cứ nói là anh Đại phụ trách một bộ phận có người là đảng viên” (sự thực, tổ báo vụ do Đại phụ trách thuộc Tiểu ban Vô tuyến điện Văn phòng Trung ương Đảng lúc ấy hầu hết là đảng viên).

Một buổi tối mùa thu năm 1965, bỗng nhiên chị Xuân thấy chồng đạp xe đến nơi cơ quan chị sơ tán (một làng quê ở huyện Đông Anh, Hà Nội). Linh tính báo cho chị biết rằng điều đặc biệt đã xảy ra. Anh Đại hôn các con rồi ngồi xuống cạnh chị, đưa tờ “Đơn tình nguyện đi B” còn thơm mùi mực. Chị hiểu ra vấn đề! Hồi ấy, phong trào thanh niên tình nguyện vào chiến trường miền Nam đánh Mỹ diễn ra sôi nổi. Anh Đại viết đơn tình nguyện, mong sớm được ra trận. Theo quy định lúc ấy, những người đã lập gia đình riêng, nếu tình nguyện đi B thì phải được người vợ đồng ý.

Chị để anh ngồi một mình, vào giường nằm, trăn trở. “Đồng ý cho anh đi B nghĩa là để anh đi vào nơi ác liệt mũi tên hòn đạn, còn mình thì một nách hai con thơ dại! Mà không đồng ý, thì cản bước của chồng ư? Lại giữa lúc miền Nam kêu gọi giải phóng, cả nước xung phong. Vợ chồng đều còn trẻ mà giữ nhau ở lại Thủ đô, liệu có phải đạo?”. Rồi chị bước ra, tay trái bế con gái 1 tuổi, tay phải cầm chiếc bút máy Trường Sơn, nhìn con lớn đang nằm ngủ, lại nhìn vào mắt chồng. Chị ký tên mình vào lá đơn, đồng ý để anh ra tuyến đầu Tổ quốc...

Ngay hôm sau, anh Đại cùng đồng đội hành quân vào tuyến lửa B5. Ở hậu phương, chị Xuân vừa nuôi con, vừa đi làm, vừa học tốt nghiệp trung cấp tài chính, đến năm 1977 thì chị nhập học lớp Đại học Tài chính tại chức của Bộ Văn hóa. Năm 1981, chị được bổ nhiệm làm Kế toán trưởng Xưởng Phim truyện Việt Nam cho đến khi nghỉ hưu. Còn anh Đại, sau khi hoàn thành nhiệm vụ nơi tuyến lửa B5, trở ra làm Trạm trưởng Cơ công của Tổng cục Hậu cần, thì các con anh đã cắp sách đến trường. Về sau, kể cả khi nhận quân hàm trung tá cho đến ngày nghỉ hưu (năm 1987) và đến tận bây giờ, trong khi vợ và người con trai (là trung tá quân đội) đã qua hàng chục tuổi Đảng, thì ông Nguyễn Văn Đại-quý tử của Nghệ sĩ Nhân dân Quách Thị Hồ (1909-2001) vẫn không phải là đảng viên. Mặc dù vậy, ông vẫn được mọi người vị nể, mến phục bởi đức tính nhân hậu và những điều ông đã trải qua trên đường đời chiến sĩ.

Bài và ảnh: PHẠM XƯỞNG.