QĐND - Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Hồng Nhị vốn là phi công thuộc Trung đoàn Không quân 921, Quân chủng Phòng không-Không quân. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cùng chiếc máy bay Mig-21, ông đã “hạ gục” nhiều máy bay địch trên bầu trời Việt Nam. Sau những lần đấu trí với địch, có một “đường băng dịu êm”, là “bến đậu” luôn chờ đón người phi công tài năng này. Đó là người vợ thân yêu của ông, bà Nguyễn Thị Thanh Dậu.

"Phải lòng” từ lần gặp đầu tiên

Năm 1966, sau một trận chiến đấu với không quân địch, Nguyễn Hồng Nhị được Trung đoàn 921 cho đi nghỉ an dưỡng ở Tam Đảo. Tại đây, anh gặp chị Nguyễn Thị Thanh Dậu, là y sĩ của trạm xá Tam Đảo. Gặp chị lần đầu, nhất là hình ảnh chị Dậu đi vác nứa ở rừng về, mồ hôi chảy ròng trên khuôn mặt đỏ hồng, quần xắn cao, bước đi vững chắc đã gây ấn tượng mạnh với chàng phi công. Anh “phải lòng” cô sơn nữ ấy lúc nào không biết.

Vợ chồng CCB Nguyễn Hồng Nhị. Ảnh do gia đình cung cấp.


Tháng 6 năm sau, Nguyễn Hồng Nhị cùng một số phi công của đơn vị lại có dịp lên nghỉ ở Tam Đảo. Anh hồi hộp muốn gặp lại cô y sĩ trạm xá. Để có cớ, anh đã tự gây ra xây xát khi chơi thể thao để xuống trạm xá nhờ y sĩ Dậu bôi thuốc, băng bó. Anh đi cùng một số phi công, trong đó có anh Nguyễn Nhật Chiêu. Các anh đều giấu tên thật của mình, giấu cả quê quán nữa. Anh Chiêu giới thiệu tên là Châu. Anh Nhị giới thiệu mình tên là Việt, quê ở Bến Tre. Câu chuyện của các anh cứ tào lao không ăn nhập vào đâu. Khi anh Nhị giới thiệu mình quê Bến Tre, cô y sĩ Dậu hồn nhiên đáp: “Ồ! Tỉnh chúng em là tỉnh kết nghĩa với Bến Tre nhà anh đấy. Như vậy là đồng hương rồi, đúng không anh?”. Nói rồi chị tủm tỉm cười.

Một lần, Nguyễn Hồng Nhị xin được địa chỉ và xuống nhà Dậu chơi. Ông bố Dậu rót nước chè xanh pha với mật ong ra mời. Nguyễn Hồng Nhị chẳng nói năng gì, cứ ngồi uống nước. Ông rót bao nhiêu là uống bấy nhiêu, trông rất buồn cười... Trước khi về, anh Nhị cũng hỏi chị Dậu được câu:

- Nếu anh viết thư cho em thì em có nhận và có đọc không?

- Em nhận và đọc chứ! Tình quân dân như cá với nước mà.

Anh tặng chị chiếc bút máy Kim Tinh của Trung Quốc có khắc tên mình. Chị cũng lấy chiếc bút Hồng Hà có khắc tên Thanh Dậu ra để tặng lại anh. Từ đây, những chiếc bút như dây tơ nối cho những tiếng lòng ngân vang, kéo gần sự xa cách…

Vậy là tình yêu đã đến với chàng trai Bình Định tập kết ra Bắc và cô sơn nữ Tam Đảo. Nguyễn Hồng Nhị đã viết trong nhật ký nói lên sự khao khát yêu nhau của thời trai trẻ: “… Em yêu anh giống như đất nắng hạn lâu ngày gặp mưa. Anh yêu em giống như trời đang đổ cơn giông xua đi nắng hạn…”. Đoạn khác anh lại viết: “Tình yêu đã sưởi ấm cho tôi thêm về tình cảm gia đình và luôn động viên tôi bắn rơi nhiều máy bay giặc Mỹ”. Còn cô sơn nữ lại viết cho chàng phi công: “Dù gió có thay chiều đổi hướng/ Nhưng tình yêu trăm vạn lần hơn/ Anh yêu của em”.

Sau khi Nguyễn Hồng Nhị báo cáo với tổ chức chuyện tình yêu của mình, đích thân Trung đoàn trưởng Trần Mạnh, Chính ủy Chu Duy Kính thay mặt đơn vị lên thăm gia đình và đặt vấn đề “tình cảm” của Nguyễn Hồng Nhị. Chuyện cưới xin cho anh cũng được bàn định, sắp xếp nhanh gọn. Tháng 5 anh về báo cáo tổ chức thì tháng 11, đơn vị cùng với cán bộ và nhân dân thị trấn Tam Đảo đứng ra tổ chức lễ thành hôn cho anh chị.

Đám cưới thời chiến thật giản dị. Kẹo, chè, thuốc lá và những lời ca tiếng hát chúc tụng cô dâu, chú rể. Anh chị tràn ngập trong niềm vui, say đắm trong hạnh phúc, nhưng hai người không ở được với nhau bao lâu. Ngay trong tuần trăng mật, mới chỉ đến hôm thứ hai, có nhiệm vụ chiến đấu, đơn vị đã cho xe đến đón anh lúc nửa đêm. Tam Đảo mùa ấy rất rét, trời đầy sương mù, gió thổi lạnh buốt. Anh cởi chiếc áo ấm choàng cho chị, truyền lại hơi ấm của anh cho vợ trước khi lên đường nhận nhiệm vụ mới.

Hạnh phúc trong gian khó

Năm 1969, bé Hồng Tâm ra đời. Niềm vui hạnh phúc nhân lên gấp bội. Chị vẫn ở lại với ông bà ngoại, nuôi con. Anh vẫn đi chiến đấu với những chuyến xuất kích ngày càng cam go và thường xa biền biệt. Bé Hồng Tâm có những chiều ra đứng ngoài cổng, thấy bạn bè hàng xóm gọi bố cũng học theo gọi: “Bố ơi! Con mời bố về ăn cơm”. Xa anh, chị vẫn nuôi dạy con cái, chăm sóc mẹ già và hoàn thành tốt nhiệm vụ ở trạm xá. Lâu lâu anh ào về, rồi lại hối hả đi...

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, anh được điều động vào Nam công tác nên anh chuyển gia đình vào trong đó. Chị được công tác ở bệnh viện của Quân chủng Phòng không-Không quân (từ 1976-1979). Khi bệnh viện của quân chủng chuyển ra ngoài Bắc, chị chuyển về công tác ở Bệnh xá Sư đoàn Không quân 370. Lại tiếp tục những chuỗi ngày vất vả. Mặc dù đơn vị gần nhà nhưng anh thường xuyên phải đi công tác xa. Con của anh chị lớn dần thì anh lại chuyển công tác xa dần, lại “Bắc tiến”-ra Đà Nẵng, rồi Thanh Hóa, Hà Nội và về Gia Lâm. Đúng cảnh chồng Bắc vợ Nam, giống như vợ chồng Ngâu, lâu lâu mới được gặp nhau.

Anh chị chỉ thực sự gần nhau, chăm sóc cho nhau khi anh đã nghỉ hưu. Các con đã trưởng thành, ngoan ngoãn. Tiếng các cháu nô đùa ríu rít suốt ngày làm cho không khí luôn vui vẻ. Lần anh lâm bệnh nặng phải nhập viện, chị lo lắng chăm sóc cho anh. Bệnh tật của anh cũng vơi dần qua sự chăm sóc, ân cần của chị. Hạnh phúc của chàng phi công và cô sơn nữ ấy ngày một viên mãn bên cuộc đời dịu êm.

NGUYỄN CÔNG HUY