Sở chỉ huy Quân đoàn 1 là cơ quan chỉ huy cao nhất của quân đội ngụy Sài Gòn ở khu vực miền Trung, là trung tâm chỉ huy của Vùng 1 chiến thuật. Theo mệnh lệnh, chiều 29 tháng Chạp năm Đinh Mùi (28-1-1968), K36 cơ động về vị trí tập kết. Các lực lượng tiến công vào Sở chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy tại TP Đà Nẵng, gồm có: K36, do Đại đội trưởng Châu Quang Trung chỉ huy và Đại đội 1, Tiểu đoàn 1 (mật danh R20), do đồng chí Chín, Đại đội trưởng chỉ huy. Đơn vị hành quân ra bờ sông, thuyền của dân đã đợi sẵn để đưa bộ đội qua sông, thâm nhập nội thành Đà Nẵng. Trung đội trưởng Trung đội 1 Huỳnh Ngọc Kim (K36) được phân công chỉ huy tiểu đội mũi nhọn đi trước dò đường, mở một con đường thọc sâu vào sau lưng địch.
Sau khi xác định vị trí cách đường nhựa (nay là đường Núi Thành, Đà Nẵng) một cánh đồng, Huỳnh Ngọc Kim dẫn tiểu đội đi trước tìm cách bám sát đường lớn. Dưới sự hướng dẫn của Chính trị viên Đại đội Phạm Mận, vốn là cơ sở của ta cài vào Quân đoàn 1 ngụy để nắm tình hình bố phòng bên trong của địch, tiểu đội cơ động gần đến khu gia binh nằm phía sau Sở chỉ huy Quân đoàn của ngụy. Lợi dụng ánh sáng, mấy anh em lên chỗ cao quan sát vào bên trong. Dưới ánh đèn điện, các dãy nhà im ắng. Trên con đường nội bộ, thỉnh thoảng có vài người hoặc chiếc xe Jeep xuất hiện rồi mất hút sau doanh trại. Mọi người đang nghĩ cách tìm đường tiếp cận tường rào để không bị lộ thì bất ngờ một người đàn ông xuất hiện. Anh ta đi từ khu gia binh ra hướng đại đội đang ém quân. Huỳnh Ngọc Kim chạy đến dùng thế khóa tay, bịt miệng anh ta. Sau khi tra hỏi, được biết anh ta là lính trong khu gia binh, Đại đội trưởng Châu Quang Trung nói: “Chúng tôi là Quân Giải phóng. Anh hãy chỉ cho chúng tôi đi đường nào không có mìn vào tường rào phía sau Quân đoàn. Chúng tôi hứa bảo vệ an toàn cho anh”.
    |
 |
Cựu chiến binh Huỳnh Ngọc Kim. Ảnh: LONG AN
|
Sau đó, anh ta dẫn tiểu đội đi xem trước địa hình. Huỳnh Ngọc Kim mở sơ đồ ra đối chiếu, đúng là ta đang ở phía sau trụ sở Quân đoàn 1 ngụy. Địch bố trí phòng ngự phía sau 3 lô cốt âm tường, lỗ châu mai hướng ra ngoài. Tường cao 2,5m, bên trên, chúng dùng giá đỡ bằng thép hình chữ V phủ 3 lớp rào thép gai bùng nhùng rất khó vượt qua. Chỉ huy Đại đội quyết định dùng ván lấy ở khu gia binh bắc qua hàng rào thép gai để vào bên trong.
Giờ G đã điểm, pháo binh ta từ Hòa Phong (Hòa Vang, Đà Nẵng) bắn cấp tập vào sân bay Đà Nẵng. Chính trị viên Phạm Mận hô to: “Đ.K!”, lập tức 3 khẩu B-41 cùng khạc lửa. Hai lô cốt trúng đạn, lỗ châu mai bị xé toang. Còn lô cốt thứ ba đạn trượt ra phía ngoài nên đại liên từ lỗ châu mai địch bắn ra liên hồi. Huỳnh Ngọc Kim chộp luôn khẩu súng, lắp đạn, ngắm thẳng lỗ châu mai bóp cò. Quả đạn B-41 trúng đích, hệ thống phòng thủ phía sau Sở chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy bị tê liệt hoàn toàn. Đại đội vác ván bắc lên hàng rào dây thép gai. Tuy nhiên, tường cao nên không dễ gì vượt qua được. Thấy vậy, Chính trị viên Phạm Mận tựa hai tay vào tường, khom người xuống và bảo: “Các đồng chí đứng trên vai tôi nhảy vào”. Huỳnh Ngọc Kim cầm súng B-41, bước trên vai Phạm Mận, bật qua tường vào được bên trong.
Phát hiện có đối phương đột nhập, địch dùng xe Jeep gắn đại liên chạy đến, bắn xối xả vào đội hình của ta. Ổn định tư thế bắn, Huỳnh Ngọc Kim nhằm thẳng xe Jeep bóp cò. Chiếc xe bốc cháy dữ dội, Đại đội nhất loạt tràn hết vào bên trong đánh địch. Sau khoảng 20 phút chiến đấu, K36 cơ bản làm chủ toàn bộ phía sau khu doanh trại Quân đoàn 1 ngụy. Địch tháo chạy ra cổng trước, trốn vào các căn nhà hoặc công sự bí mật. Trên hướng Đông, mũi tiến công của Tiểu đoàn 1 cũng đã làm chủ trận địa. Địch chạy ra cổng trước đều bị lực lượng ta tiêu diệt.
Theo hiệp đồng, sau khi làm chủ phía sau, K36 tiến thẳng ra phía trước, dùng mật khẩu liên lạc với mũi của đồng chí Chín. Các mũi sẽ hội quân ở cổng sau của Quân đoàn ngụy. 1 giờ 20 phút, hai đơn vị gặp nhau. Huỳnh Ngọc Kim cùng 2 chiến sĩ chạy thẳng lên phòng làm việc của tên Trung tướng Hoàng Xuân Lãm, Tư lệnh Quân đoàn 1 ngụy, nhưng ông ta đã bỏ chạy từ trước. 2 giờ mồng Một Tết Mậu Thân, ta hoàn toàn làm chủ khu doanh trại Quân đoàn 1 ngụy. 2 giờ 30 phút, K36 dùng máy thông tin PRC25 liên lạc với chỉ huy tiền phương, nhận được chỉ thị tiếp tục giữ vững trận địa, quân tiếp viện sắp tới. Phía ngoài, tiếng súng thưa dần rồi trở nên im ắng.
Trong trụ sở Quân đoàn 1 ngụy, địch đoán biết lực lượng của ta mỏng, chúng bắt đầu triển khai lực lượng, tập trung hỏa lực tấn công. Máy bay trực thăng từ sân bay Đà Nẵng, sân bay Nước Mặn bay lên hàng đàn, soi đèn và bắn đại liên, rốc-két vào những vị trí mà chúng nghi ngờ. Ta phải lùi ra phía sau, phá tường, thoát ra ngoài và phân tán đội hình bám chặt khu gia binh để chiến đấu. Trời sáng hẳn, chỉ huy Đại đội điện về sở chỉ huy tiền phương báo cáo tình hình đơn vị đã rút ra ngoài và nhận được lệnh tiếp tục mở đường máu rút lui. Đến 7 giờ, Đại đội mất liên lạc với sở chỉ huy tiền phương.
Lính biệt động quân, lính dù của địch từ các nơi được chở tới, triển khai bao vây toàn bộ khu vực phía sau Quân đoàn 1. Trên trời, máy bay UH-1 quần thảo. Trong khi đó, lực lượng tiếp viện của ta không có. Xác định tình thế đã nguy ngập, Chính trị viên Phạm Mận vừa chỉ huy đơn vị, vừa nói: “Kim, Đảng, nếu các em còn sống trở về thì hãy nói lại với đơn vị và nhân dân Hòa Hải là anh Phạm Mận đã hoàn thành nhiệm vụ!”.
7 giờ 30 phút, ta bắt đầu đụng độ với địch, nhiều đồng chí bị thương, hy sinh. Anh Thạnh, cán bộ Mặt trận 44 tăng cường cho K36, trao đổi với anh Phạm Mận và Huỳnh Ngọc Kim, động viên anh em mở đường máu chạy về hướng Khuê Trung, Hòa Thọ (nay thuộc quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng). Tuy nhiên, địch đã chốt chặn đường rút lui của ta. Đại đội trưởng Châu Quang Trung và một số chiến sĩ hy sinh. Huỳnh Ngọc Kim, Phạm Mận và anh Thạnh bám sát nhau để hỗ trợ chống trả với địch. Trên đường di chuyển, anh Thạnh bị địch bắn trọng thương. Huỳnh Ngọc Kim chụp vội khẩu súng và kéo anh vào trong một căn bếp của khu gia binh. Khi băng bó cho anh Thạnh, anh Kim còn nghe anh nói được một câu: “Vĩnh biệt em!” rồi tắt thở. Huỳnh Ngọc Kim và Phạm Mận tiếp tục chạy vào bếp của ngôi nhà kế bên.
Lúc này vào khoảng 11 giờ trưa, ở trong góc bếp, Huỳnh Ngọc Kim mới biết mình bị thương ở chân, Chính trị viên Phạm Mận cũng bị thương rất nặng. Địch tiếp tục tấn công vào nhà, Kim siết cò khẩu AK rồi kéo anh Mận chạy qua nhà khác. Phạm Mận đã yếu, chạy chậm nên bị địch bắn ngã ngay giữa sân. Vào bếp nhà kế bên, Huỳnh Ngọc Kim gặp Trung đội trưởng Trung đội 2 Hồ Ngọc Đảng, biết Trung đội 2 đã bị tổn thất. Địch tấn công vào ngôi nhà, hai người di chuyển sang hai hướng.
Ông Kim xúc động nói: “Tôi nằm nghe một loạt AK nổ giòn và đoán chắc là anh Đảng bắn. Sau đó thì không nghe tiếng súng AK nữa”. Quân lính chạy vào, phát hiện anh Mận đang nằm, một tên hét to: “Hắn đây rồi! Hắn đây rồi!”. Từ căn nhà gần đấy, xác định hy sinh cũng phải chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, Huỳnh Ngọc Kim bình tĩnh ngắm từng tên. Một phát súng nổ, một tên địch ngã gục. Trong bóng tối của căn nhà, anh bắn gần hết băng đạn thì địch tràn vào nhiều hơn. Bất ngờ, một quả đạn M79 nổ bùng. Huỳnh Ngọc Kim bị thương vào đầu, bất tỉnh. Khoảng 20 giờ mồng Một Tết, anh tỉnh lại. Một cô y tá cho biết lính Mỹ đã bắt được anh và đưa về Bệnh viện Duy Tân điều trị. Ra viện, chúng giam anh ở nhà lao Non Nước. Mặc dù địch dùng mọi thủ đoạn tra tấn nhưng Huỳnh Ngọc Kim vẫn một mực khai: “Tôi tên Nguyễn Văn Ba, quê ở Gò Nổi, Điện Bàn. Họ bảo đi Đà Nẵng khiêng đạn, tôi đi theo nên bị bắt”. Không khai thác được gì, tháng 3-1968, chúng đày anh và những người bị bắt ra nhà tù Phú Quốc. Tại đây, Huỳnh Ngọc Kim bất ngờ gặp lại Hồ Ngọc Đảng. Sau đó, hai người cùng sinh hoạt trong chi bộ nhà tù. Ngày 12-3-1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Huỳnh Ngọc Kim và đồng đội được trao trả theo thỏa thuận giữa ta và địch.
NGUYỄN AN NHIÊN