Theo sự ghi chép của gia phả, Nguyễn Văn Giáp tên húy là Nguyễn Thường, tên tự là Văn Giáp, tên hiệu là Chu Cát, tên thụy là Trang Lương. Cụ là hậu duệ đời thứ 17 của dòng tộc “Họ Nguyễn Khai Khoa” (họ Nguyễn mở đầu truyền thống khoa bảng) cho ngôi làng Tó, Tả Thanh Oai) nổi tiếng về nhiều phương diện trên đất huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Nội (nay là huyện Thanh Trì, ngoại thành Thủ đô).
Cùng với “Họ Ngô một bồ tiến sĩ” với những tiến sĩ cự phách như Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm… ở Tả Thanh Oai, “Họ Nguyễn Khai Khoa” của Nguyễn Văn Giáp-chỉ tính từ đời thủy tổ đến đời tổ thứ 14 từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 17 đã có 1 bảng nhãn, 6 tiến sĩ, 3 hoành từ (tương đương tiến sĩ)! Vì thế, Nguyễn Văn Giáp-con trai trưởng của một gia đình có cha là Nguyễn Lương làm chức Hàn lâm Thị độc, mẹ là Nguyễn Thị Chức được phong Ngũ phẩm Nghi nhân-từ nhỏ đã rất được chăm chút việc học hành. Cho nên đến khoa thi Hương năm Giáp Tý 1864, đời Tự Đức năm thứ 16, thì đã thi đỗ tứ trường cử nhân.
Chân dung cụ Nguyễn Văn Giáp trên bàn thờ Từ đường “Họ Nguyễn Khai Khoa” ở Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội.
Được bổ quan chức ngay sau khi thi đỗ, bắt đầu từ chức Tri huyện Chân Lộc (nay là Nghi Lộc-Nghệ An) hàm Lục phẩm, sau đó thăng làm Tri phủ Đoan Hùng (nay là phía tây tỉnh Phú Thọ) hàm Ngũ phẩm, cuối cùng, Nguyễn Văn Giáp đã làm đến chức Bố chính (phụ trách ngành Kinh tế-Tài chính) của tỉnh lớn Sơn Tây, hàm Tam phẩm. Tên gọi tắt: “Quan Bố Giáp” từ đây và vì thế mà có.
Bấy giờ là năm 1883 đầy biến động của lịch sử đất nước mà tác nhân chính là cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Hai lần đưa quân đánh phá Hà Nội và Bắc Kỳ vào các năm 1873 và 1882, thực dân Pháp đều biết rõ: Một trong những căn cứ phòng giữ rồi phản công rất mạnh của nước Việt ở Bắc Kỳ từng gây tổn thất nặng nề cho quân xâm lược chính là Sơn Tây.
Vì thế, sau hai trận thua to-đều ở Cầu Giấy, khi địch tiến binh từ Hà Nội lên đánh Sơn Tây-vào các tháng 12-1873 và tháng 5-1883, bị giết chết tại trận cả hai chỉ huy là Ph.Gác-ni-ê (F.Garnier) và H.Ri-vi-e (H.Rivière), đến tháng 8-1883 và tháng 12-1883, thực dân Pháp đã điều động những lực lượng rất lớn nhằm vào thành Sơn Tây mà tấn công dữ dội. Sau khi phải hứng chịu nhiều thương vong, đến tối 16-12-1883 thì giặc chiếm được tòa tỉnh thành Xứ Đoài.
Đấy là những sự biến xảy ra đúng vào thời gian mà cụ Nguyễn Văn Giáp đang làm quan triều Nguyễn Sơn Tây.
Theo tài liệu gia phả, thì ở trận Cầu Giấy (tháng 12-1873) giết được chỉ huy Ph.Gác-ni-ê của giặc, cụ Nguyễn Văn Giáp có từ Sơn Tây xuống dự trận cùng với một người trong họ nữa, là cụ Bát Trạch.
Đến trận đánh bảo vệ Sơn Tây (tháng 12-1883) thì các tài liệu sử sách chính thống đều chép rõ: “Bố (chính Nguyễn Văn) Giáp” đã hăng hái cùng quan quân chiến đấu rất dũng cảm, tiêu diệt được nhiều sĩ quan và binh lính địch.
Nhưng đến khi thành Sơn Tây thất thủ và đặc biệt là trước những chỉ đạo “lúng túng như gà vướng tóc” (vì mâu thuẫn giữa hai đường lối và phe phái “chủ chiến”-“chủ hòa”) của triều đình Huế, thì chỉ có một mình cụ Nguyễn Văn Giáp-đột xuất và độc lực-sáng tạo và làm được một việc khác thường trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, là: Đưa một cánh nghĩa quân rút khỏi thành Sơn Tây, vượt sông Thao (sông Hồng) lên phía bắc trước hãy chọn vùng huyện Lâm Thao (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) làm căn cứ, sau đó, tập hợp các lực lượng yêu nước, quyết tâm đánh giặc, trên cả vùng thượng du lưu vực sông Hồng và sông Đà tự đứng ra tổ chức kháng chiến, tiếp tục và lâu dài, với đường lối và hành động này, danh hiệu “Bố Giáp” đã dội vang khắp miền Tây Bắc Kỳ, và “vào” cả trong nhiều sử sách đương thời.
Khi ấy, trên cùng địa bàn hoạt động, chung kẻ thù xâm lược, đặc biệt là giống nhau về tinh thần và ý chí đã xuất hiện một liên minh giữa hai nhà yêu nước họ Ngô và họ Nguyễn trên miền thượng du và trung du Tây Bắc Kỳ. Bản tấu sớ của Tổng đốc Vân Quý (Vân Nam-Quý Châu) Sầm Dục Anh, gửi lên vua nhà Thanh ngày 6-12-1884, đã có câu phản ánh rất rõ sự thể này: “Bố chính Sơn Tây Nguyễn Văn Giáp đã đem mấy trăm quân lính đến hiệp lực cùng Tuần phủ Hưng Hóa Nguyễn (Ngô) Quang Bích”!
Từ giữa năm 1884 đến giữa năm 1885, bất chấp bản “Hàng ước 6-6-1884” đã được triều đình Huế ký với Pháp chính thức mở đường cho giặc vào đô hộ đất nước, bất chấp các “Quy ước Thiên Tân 14-5-1884”, rồi “Hiệp định đình chiến 4-4-1885” và “Điều ước Thiên Tân 9-6-1885” đã được triều đình nhà Thanh cùng ký với Pháp, từ bỏ mọi liên quan và “giúp đỡ” nước Việt, nghĩa quân Nguyễn Văn Giáp-khi thì độc lập tác chiến, khi thì phối hợp với nghĩa quân Nguyễn (Ngô) Quang Bích-đã đánh những trận thắng giòn giã ở huyện Cẩm Khê, xã Sơn Vi, căn cứ Đồn Vàng, các huyện Thanh Sơn, Thanh Thủy, các trại Hạc Giang, Việt Trì… (thuộc tỉnh Phú Thọ ngày nay) trong các tháng đầu năm 1885, và đến các tháng 4 và 5-1885 thì thu phục được cả huyện Bất Bạt, các phủ Quảng Oai, Quốc Oai (thuộc tỉnh Sơn Tây cũ), thậm chí cả phủ Vĩnh Tường (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc).
Đến tháng 7-1885, một giai đoạn lịch sử mới-giai đoạn có “danh chính ngôn thuận” mà đánh giặc của nghĩa quân Nguyễn Văn Giáp-đã mở ra. Ấy là: Tại Kinh đô Huế, nhà vua trẻ yêu nước Hàm Nghi vừa được kế vị ngai vàng nhà Nguyễn, trước sự lộng hành ngày càng quá quắt của thực dân Pháp, đã cùng quan Phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết chỉ huy một cuộc nổi dậy, và rời bỏ kinh thành, ra vùng chiến khu Bắc Trung Kỳ, hạ chiếu “Cần Vương”, kêu gọi mọi người: “Giúp vua đánh giặc”!
Nhận biết ở miền tây bắc Bắc Kỳ, từ trước đấy đã có Nguyễn (Ngô) Quang Bích và Nguyễn Văn Giáp hoạt động đánh giặc: Thanh thế “như cồn” rồi, những thủ lĩnh tối cao của phong trào Cần Vương đã lập tức hợp thức (hợp pháp) hóa ngay, các nhân sự và hoạt động ngời sáng này, Tuần phủ Nguyễn (Ngô) Quang Bích được sắc phong của vua Hàm Nghi “đề bạt” lên chức Thượng thư bộ Lễ, hàm Chánh Nhị phẩm đặc biệt được sung làm “Hiệp thống Bắc Kỳ quân vụ đại thần” phụ trách toàn bộ việc đánh giặc ở Bắc Kỳ. Trong khi đó Bố chính Nguyễn Văn Giáp, được thăng làm Tuần phủ (từ hàm Tam phẩm lên hàm Tòng Nhị phẩm), được sung làm “Tham tán hiệp đốc Bắc Kỳ quân vụ” (phụ trách việc tham mưu quân sự, cũng trên toàn cõi Bắc Kỳ).
Với tư cách là “nhân vật số hai” của Phong trào Cần Vương ở Bắc Kỳ này, cụ Nguyễn Văn Giáp-trong thời gian cụ Nguyễn (Ngô) Quang Bích, từ tháng 8-1885, được vua Hàm Nghi hai lần cử đi sứ sang nhà Thanh cầu viện đã thực tế là người nắm quyền chỉ huy tối cao Phong trào Cần Vương đánh Pháp trên toàn Bắc Kỳ. Từ cuối năm 1885 sang đến đầu năm 1886, đã đương đầu với những lực lượng “tiễu phạt” lớn của Pháp, đánh những trận lớn ở Thanh Mai (Phú Thọ), Tuần Quán (Yên Bái)… và đặc biệt là trận Tiên Động lần thứ nhất tháng 6-1886, ở huyện Cẩm Khê, tỉnh Phú Thọ-căn cứ trung tâm của nghĩa quân Tây Bắc, do “Quan Đại” (Nguyễn (Ngô) Quang Bích – theo cách mệnh danh của dân chúng địa phương) xây dựng từ năm 1884.
Lúc này, sau hai chuyến đi sứ sang nhà Thanh cầu viện không thành công (vì triều đình nhà Thanh đã bị Pháp khống chế bằng các văn bản Thiên Tân, không dám ra mặt “giúp đỡ” nước Việt nữa), cụ Nguyễn (Ngô) Quang Bích đã trở về, hợp binh với nghĩa quân Nguyễn Văn Giáp, cùng dũng mãnh đánh trận. Đó là những trận Tiên Động (lần thứ hai: Tháng 11-1886), Ngòi Vân, Đèo Go, đèo Hạn Bái… (tháng 1-1877); trên đường rút lực lượng về căn cứ Đại Lịch (ở châu Văn Chấn, tỉnh Yên Bái) của nghĩa quân.
Sau trận Đại Lịch (3-1-1877), nghĩa quân Nguyễn (Ngô) Quang Bích và Nguyễn Văn Giáp quyết định chọn vùng Mường Lò (Nghĩa Lộ)-một cánh đồng thung lũng rộng lớn và trù mật cùng với Mường Thanh (Điện Biên Phủ) họp thành hai vựa lúa trọng yếu nhất miền Tây Bắc, qua câu nói của đồng bào địa phương: “Nhất Thanh, nhì Lò”-làm căn cứ chính, kiểm soát (“cai trị”-theo cách nói trong tài liệu của Pháp: “Lịch sử quân sự xứ Đông Dương”) cả một vùng rừng núi và dân cư rộng lớn, giữa sông Thao và sông Đà.
Không ngờ, đây lại là địa bàn diễn ra trận đánh cuối cùng của Danh tướng Cần Vương Nguyễn Văn Giáp, vào tháng 11-1887. Chống lại cuộc càn quét của Pháp vào căn cứ Mường Lò, có tài liệu nói: Cụ Nguyễn Văn Giáp bị ốm, có tài liệu nói: Cụ bị thương, khi cùng cụ Nguyễn (Ngô) Quang Bích lánh vào vùng đồng bào Mông ở ngoại vi Nghĩa Lộ. Đến khi quân Pháp phải rút lui vì bị tổn thất nặng, hai cụ trở lại căn cứ thì một cụ mất!
Nhưng, để tưởng nhớ và noi gương chủ tướng, nghĩa quân Nguyễn Văn Giáp vẫn kiên trì và quyết liệt, tiếp tục đánh những trận lớn, đặc biệt là các trận Đèo Hát (28-4-1888), Bản Cọ (18-11-1889)… khiến tác giả sách “Các cuộc hành quân ở Bắc Kỳ” của Pháp là Sa-brôn (Chabrol) đã phải nhầm tưởng rằng “Bố Giáp”-đến khi ấy-vẫn là người chỉ huy những trận đánh đó!
Thực ra thì, sau khi mất ở Nghĩa Lộ (ngày 25 tháng Chín năm Đinh Hợi-theo gia phả) thi hài của cụ Nguyễn Văn Giáp đã được nghĩa quân và thân nhân (trong đó có hai người em họ của cụ, là Nguyễn Văn Tề và Nguyễn Văn Tập) bí mật đưa về mai táng ở làng Xuân Húc (nay thuộc xã Vân Xuân, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) là nơi mà một chi “họ Nguyễn Khai Khoa” gốc làng Tó (Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội), trong đó có gia đình thân phụ, thân mẫu của cụ Nguyễn Văn Giáp, đã di cư lên làm ăn sinh sống, từ đời thứ 15, 16.
Và bây giờ thì tại ngôi mộ ở đồng làng Xuân Húc, tỉnh Vĩnh Phúc, và ở Từ đường họ Nguyễn đại tông làng Tả Thanh Oai, TP Hà Nội, trong dịp kỷ niệm 180 năm ngày sinh và 130 năm ngày mất này, anh linh của vị Danh tướng Cần Vương Nguyễn Văn Giáp hẳn đang-giữa khói hương thành kính phụng thờ-lắng nghe lại lời ngợi ca trong bài văn tế của người bạn chiến đấu thân thiết Nguyễn (Ngô) Quang Bích, viết ngay từ năm 1887 ở căn cứ Nghĩa Lộ (dịch):
“Khí tiết của Ngài
Sừng sững núi đồi
Tinh linh của Ngài
Sáng rực trên trời
Thù nước còn đó
Chí lớn chưa nguôi”…
Bài và ảnh: GS LÊ VĂN LAN