QĐND-Ông là vị tướng trận mạc, đảm nhiệm cương vị chỉ huy từ cấp trung đội đến Tư lệnh Quân đoàn, đi qua cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và hy sinh oanh liệt tại chiến trường Cam-pu-chia. Ngưỡng mộ ông đã lâu nhưng tôi chưa có dịp đặt bút viết về ông - một người anh hùng, can trường, bản lĩnh trong chiến đấu, mà cũng nhân hậu, giàu tình thương với đồng chí, đồng đội và gia đình. 27-7 năm nay, kỷ niệm 65 năm Ngày Thương binh-Liệt sĩ và cũng là sinh nhật lần thứ 85 của Thiếu tướng Nguyễn Kim Tuấn, tôi tự dặn lòng là phải có trách nhiệm tìm hiểu về vị tướng anh hùng này…
Điềm tĩnh trong nguy nan
Trước khi đặt bút viết về Thiếu tướng Nguyễn Kim Tuấn (tên thật là Nguyễn Công Tiến, tên thường gọi là Kim Tuấn), tôi đã may mắn được gặp nhiều tướng lĩnh, những cộng sự thân thiết, gần gũi với ông. Trong năng lực đa diện của con người ấy, có thể thấy nổi lên một phẩm chất rất quý: Khi chỉ huy chiến đấu, càng lúc khó khăn, căng thẳng, ông càng điềm tĩnh, sáng suốt. Sự điềm tĩnh ấy giúp ông có những quyết định chính xác vào những thời điểm then chốt. Ngay từ khi còn là chỉ huy ở cấp phân đội, phẩm chất đó đã được thể hiện. Trung tướng Khuất Duy Tiến, nguyên Tư lệnh Sư đoàn 320 kể lại rằng, ấn tượng khi ông còn là anh lính binh nhì mà cũng là bài học đầu đời binh nghiệp của ông gắn với người chỉ huy Kim Tuấn.
 |
Tư lệnh Kim Tuấn (người thứ nhất, bên trái) tại chiến trường Cam-pu-chia năm 1979. |
Lúc đó, ông Tiến là chiến sĩ, còn ông Kim Tuấn là Phó tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 48 (Sư đoàn 320) trực tiếp tham gia trận chiến đấu chống càn tại làng Tam Dương, Thạch Lỗi, Yên Khánh, Ninh Bình vào một ngày đầu tháng 10-1951. Khi phát hiện Tiểu đoàn 3 trú quân ở đây, địch đã huy động 3 tiểu đoàn quân cơ động, quân địa phương, pháo binh ở các căn cứ Phúc Nhạc, chùa Cao, Yên Mô và máy bay chiến đấu tấn công áp đảo quân ta. Trận chiến đấu đang lúc ác liệt nhất thì tiểu đoàn trưởng và chính trị viên bị thương nặng, phải rời khỏi trận địa, Tiểu đoàn phó Kim Tuấn thay thế chỉ huy. Ông bình tĩnh quan sát, tổng hợp tình hình, điều chỉnh thế trận và cách đánh, lần lượt bẻ gãy từng mũi tiến công của địch, chuyển ưu thế trận đánh về ta, đánh bại hoàn toàn cuộc tấn công của địch. “Lúc căng thẳng nhất là lúc tôi thấy anh Kim Tuấn điềm tĩnh nhất. Anh chú ý tiếng nổ để phân biệt đạn, pháo ở xa hay gần và tập trung quan sát, đưa ra các quyết định làm thay đổi cục diện trận đánh. Trận Tam Dương là bài học đầu tiên và anh Kim Tuấn là người thầy đầu tiên trong đời quân ngũ của tôi. Từ đây, tôi bắt đầu hiểu thế nào là dũng cảm, là điềm tĩnh, là quả đoán; thế nào là vững chãi trong cơn nguy cấp…”- Trung tướng Khuất Duy Tiến hồi tưởng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tên tuổi của Tư lệnh Kim Tuấn gắn liền với những thời điểm quyết định nhất, những chiến dịch quyết định nhất của Sư đoàn 320 như chiến dịch Đường 9-Nam Lào, chiến dịch xuân hè 1972, đặc biệt là chiến dịch Tây Nguyên tháng 3-1975. Đại tá Nguyễn Công Dung, nguyên Trưởng ban Quân lực Sư đoàn 320 nhớ lại:
“Đêm 16-3-1975, có điện thoại trực tiếp từ Phó tổng Tham mưu trưởng Lê Ngọc Hiền, truyền đạt mệnh lệnh của Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng cho Tư lệnh Sư đoàn 320 Kim Tuấn: Cơ động thật nhanh lực lượng xuống phía nam thị xã Cheo Reo, thực hiện bao vây tiến công, tiêu diệt lực lượng địch rút chạy trên Đường số 7.
Nhận mệnh lệnh xong, Tư lệnh Kim Tuấn lặng đi trong giây lát. Ông cho mời Chính ủy Bùi Huy Bổng đến và mở bản đồ, bàn bạc, thống nhất rất nhanh. Sau đó, Tư lệnh nối máy làm việc với Trung đoàn trưởng Trung đoàn 64 Phạm Quang Bào và ra lệnh cho Trung đoàn 64 ngay lập tức cơ động trong đêm. Giọng của Tư lệnh vẫn dứt khoát nhưng cũng ôn tồn, kiềm chế xúc động. Tình hình rất căng thẳng, nhưng ông không hề cáu gắt hay vội vã. Có lẽ ông không muốn làm cấp dưới rối trí do những diễn biến quá nhanh của chiến dịch. Đêm hôm đó, Tư lệnh Kim Tuấn thức trắng. Cứ 30 phút, ông lại yêu cầu trợ lý tác chiến liên lạc với Trung đoàn 64 xem bộ đội đã cơ động đến đâu và đánh dấu trên bản đồ. Cho tới khi Trung đoàn trưởng Phạm Quang Bào báo cáo, đơn vị đầu tiên của trung đoàn đã ra tới điểm chốt chặn và bắt đầu nổ súng đánh địch, Tư lệnh mới thở phào nhẹ nhõm…”.
Bát canh cua và miếng sâm đẫm nước mắt
Trong sinh hoạt, lúc còn là cán bộ phân đội hay khi phát triển lên là Tư lệnh sư đoàn, quân đoàn, Thiếu tướng Kim Tuấn vẫn giữ nếp sinh hoạt giản dị, đồng cam, cộng khổ với bộ đội. Cuối năm 1970, khi đi chuẩn bị chiến trường cho chiến dịch Đường 9-Nam Lào, nhiều cán bộ trong đoàn công tác do Tư lệnh Kim Tuấn chỉ huy bị sốt rét. Bản thân ông cũng bị sốt. Da dẻ ông từ hồng hào chuyển sang tái xanh, mặt mũi thâm quầng, hốc hác. Mặc dù vậy, ông vẫn không nghỉ, hằng ngày đi nghiên cứu địa hình, tối về hội họp, đọc tài liệu. Một buổi chiều, anh em ở trung đoàn bộ Trung đoàn 64 bắt được nhiều cua đồng, đã tổ chức nấu riêu cua với rau tàu bay và cây chuối rừng non để bồi dưỡng cho cán bộ và anh em bị sốt rét. Chỉ huy trung đoàn dành một ăng-gô đựng canh để biếu Tư lệnh sư đoàn cũng đang bị sốt. Tư lệnh Tuấn hỏi:
- Các đồng chí lấy đâu ra của quý này?
- Dạ, cua bắt ở cánh đồng Mường Phìn; rau thì hái trong rừng ạ.
- Tôi chỉ xin ít thôi, còn để các đồng chí khác nữa chứ.
- Thưa, anh em có đủ rồi ạ!
Khi đó ông mới nhận nhưng yêu cầu chia ăng-gô canh thành bốn phần: Tư lệnh và chiến sĩ công vụ hai phần, còn hai phần ông bảo mang cho đồng chí y sĩ và trực ban tác chiến sư đoàn đang làm nhiệm vụ. Ông còn nhắc nhở cán bộ Trung đoàn 64 khi hái rau rừng không được vặt cả thân cành, nhổ rễ và phá cây non, để cây còn phát triển, phục vụ cho các đoàn hành quân sau, những người đến sau…
Hôm khác, khi đi nghiên cứu vùng Phu-noong-hay (nước bạn Lào), ông không thấy đồng chí Huỳnh, Chủ nhiệm thông tin Trung đoàn 64 đâu. Hỏi ra mới biết, Chủ nhiệm Huỳnh đã bị sốt rét ác tính 3 hôm rồi. Lo lắng vì nhiệm vụ lần này, mặc dù đang ốm, Huỳnh vẫn tình nguyện xin đi nhưng chỉ huy đơn vị không đồng ý và lệnh phải ở lại bệnh xá để điều trị. Hỏi thăm cặn kẽ tình hình sức khỏe của đồng chí Huỳnh, tối đó, Tư lệnh Kim Tuấn còn cho y sĩ mang xuống cho anh một miếng sâm và yêu cầu phải chữa bệnh cho khỏe mới được đi thực địa. Chủ nhiệm Huỳnh vừa nhận sâm vừa khóc vì xúc động trước sự quan tâm của tư lệnh. Nhiều người biết tin này cũng rưng rưng, vì ai cũng hiểu, bản thân người chỉ huy của mình cũng đang bị sốt, phần thực phẩm và tiêu chuẩn bồi dưỡng cũng không hơn cấp dưới là bao. Biết đơn vị nọ dồn lượng đường tiết kiệm để dự trữ khẩn cấp, ông cũng trích 8 lạng đường ít ỏi của mình để tham gia, động viên phong trào…
 |
Gia đình Thiếu tướng Kim Tuấn (chụp năm 2010). Ảnh do gia đình cung cấp. |
Trong gia đình, vị tướng Kim Tuấn cũng là người rất giàu tình cảm. Đại tá, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Hà, Trưởng ban Phụ nữ Quân đội, con gái ông xúc động khi nói đến những kỷ niệm về người cha của mình: “Thời kỳ gia đình tôi đi sơ tán cùng ông bà nội, mỗi khi về công tác hay hội họp, bố đều tranh thủ thời gian lên thăm ông bà nội và các con. Thường bố về vào lúc nửa đêm, chỉ có thể dành thời gian 1-2 tiếng rồi lại phải đi ngay, chúng tôi được đánh thức vào lúc nửa đêm, chưa kịp hết ngái ngủ thì đã đến giờ bố phải đi. Khi ở Hà Nội, mỗi lần về, bố quan tâm và thường giúp mẹ và chúng tôi những việc cụ thể, thiết thực. Việc đầu tiên là sửa xe đạp. Nhà có 2 xe, 1 cái mẹ tôi dùng để đi làm, 1 cái cho hai chị em chúng tôi đi học. Đó là những phương tiện rất cần thiết, không có thì rất khó khăn. Bố biết thế nên lần nào về cũng mang xe ra sửa, lau dầu. Có lần, bố vừa tháo xe đạp ra để chữa thì có lệnh từ trong báo ra là phải về đơn vị ngay có việc gấp. Lúc đó cơm đã dọn ra, nhưng bố vẫn tận dụng thời gian để lắp lại chiếc xe đạp, không kịp cả ăn cơm, vơ vội chiếc bánh mì mang lên ô tô để vừa đi vừa ăn. Sau hơn 30 năm ngày bố đi xa, được tiếp nối ông trên con đường binh nghiệp, tôi và em trai (Đại tá Nguyễn Công Hiệu - Tùy viên quân sự Việt Nam tại In-đô-nê-xi-a - PV) luôn tự hào về người cha, và vẫn như thấy ông ở bên cạnh mình”.
Những ngày đầu năm 1979, trên cương vị Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn 3, ông đã chỉ huy đơn vị đập tan tuyến phòng ngự của 2 sư đoàn Pôn Pốt tại Công Pông Chàm, giải phóng khu Đông Bắc, khu Bắc, Tây Bắc Cam-pu-chia và góp phần giải phóng thủ đô Phnôm Pênh. Ngày 16-3-1979, từ sở chỉ huy phía nam tỉnh Bát Tam Boong, ông cùng đoàn cán bộ đi kiểm tra công tác chuẩn bị chiến đấu của Sư đoàn 10, Sư đoàn 31, khi đến Phum Tốc, bắc Bát Tam Boong thì gặp địch phục kích. Mặc dù lực lượng địch bị tiêu diệt nhưng Tư lệnh Kim Tuấn cũng bị thương rất nặng, được chở bằng máy bay trực thăng về Thành phố Hồ Chí Minh để cứu chữa, nhưng ông đã không qua khỏi và trút hơi thở cuối cùng ngay trên máy bay vào sớm ngày 17-3-1979. Trước lúc hy sinh, ông nhận hết trách nhiệm về mình, dặn dò đồng đội và gửi lời xin lỗi gia đình. Một vị tướng trận mạc đã đi qua 3 cuộc chiến tranh, hy sinh anh dũng vào thời điểm cuối cùng của chiến dịch giúp bạn đã để lại lòng tiếc thương và xúc động lớn trong toàn quân. Trong bài thơ “Anh lặng lẽ - vì mọi người”, tác giả Nguyễn Bao có viết: “…Nhưng chiến tranh/ có bao chuyện không ngờ/ Nào ai biết/ Anh bất ngờ/ ngã xuống/ Vì ngày mai đất nước/ Vì hạnh phúc biết bao người thân thương/ Biết ơn anh/ Trọn một đời/ lặng lẽ hy sinh!”…
Trần Hoàng Tiến