QĐND - Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị về giải phóng miền Nam trong năm 1975, tháng 1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp quán triệt và quyết định mở Chiến dịch Tây Nguyên (mang mật danh A275), nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng các tỉnh nam Tây Nguyên (Đắc Lắc, Phú Bổn, Quảng Đức), thực hiện chia cắt và tạo thế chiến lược mới trên chiến trường, tiến tới Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Viết về chiến dịch lịch sử này đã có rất nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, dường như đủ các thể loại văn, thơ, nhạc, họa, phim ảnh, sân khấu...
|
Nhà thơ Thân Như Thơ. |
Và, cho đến hôm nay, đã hơn 40 năm, cứ mỗi dịp tháng ba về, những người lính tham gia Chiến dịch Tây Nguyên năm xưa, không mấy ai không nhớ về “Tháng ba Tây Nguyên”-1975 khi đóng quân trong những cánh rừng lá đỏ hay hành quân chiến đấu dọc những con đường đỏ bụi thuộc ba tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai và Kon Tum mới hoàn toàn giải phóng. Những ngày ấy, đâu đâu dường như cũng nghe vang lên giọng hát vừa phơi phới vừa trầm hùng của hai ca sĩ Quang Hưng và Hoài Thu (Đoàn Văn công Tổng cục Chính trị) trên làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam:
Tháng ba
mùa con ong đi lấy mật,
mùa con voi xuống sông hút nước,
mùa em đi phát rẫy làm nương,
anh vào rừng đặt bẫy cài chông...
Bài hát nổi tiếng này ít ai biết nó được nhạc sĩ Văn Thắng phổ thơ của một sĩ quan quân huấn-Đại tá Thân Như Thơ, nguyên biên tập viên cao cấp Tạp chí Huấn luyện thuộc Bộ Tổng Tham mưu.
Thân Như Thơ sinh ngày 20-5-1931 tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam và mất ngày 5-11-2001 tại Hà Nội. Văn phẩm ông để lại không nhiều, nhưng cũng không ít. Về thơ, ông có ba tập: Đêm tiếp vận (1961), Mùa sao sáng (1970), Tháng ba Tây Nguyên (1972) và văn xuôi có hai tập: Những anh hùng chiến đấu miền Nam (ký, 1962), Vượt lên phía trước (truyện, 1971)... Nhưng đọng lại có lẽ chỉ có bài Tháng ba Tây Nguyên. Bài thơ hay không chỉ bởi được phổ nhạc thành bài hát cùng tên nổi tiếng mà cái chính ấy là một sáng tác rất Tây Nguyên, đầy không khí hội hè. Tây Nguyên vốn là “chiến trường quen thuộc” của Thân Như Thơ từ những ngày kháng chiến 9 năm, bởi thế nên vùng đất này “vào” thơ ông thật Tây Nguyên, mà cũng thật tự nhiên.
|
Tháng Ba Tây Nguyên. Ảnh tư liệu. |
Tháng ba là mùa bình thường, nhưng là mùa đẹp nhất ở Tây Nguyên; mùa sinh sôi, nảy nở sự sống cho cả năm của muôn loài. Tháng Ba/ Mùa con ong đi lấy mật/ Mùa con voi xuống sông hút nước/ Mùa em đi phát rẫy làm nương... Quá quen thuộc và hầu như ai cũng biết, nhưng khi đọc lên ta lại có cảm nhận rất mới, rất lạ; chỉ có ở Tây Nguyên mà không thể có ở bất cứ nơi nào! Phải sống chan hòa, yêu hết lòng và có con mắt quan sát thật tinh tế mới có thể nâng những cái rất bình thường trong cuộc sống kia lên thành hình tượng nghệ thuật như Tháng ba Tây Nguyên:
Tháng ba
sớm sớm mẹ ra rừng
theo dấu chân rùa đi tìm nấm mối.
Chiều chiều cha chọn một góc vườn
dạy con trai phóng lao trừ hổ báo.
Tháng ba
mùa hoa vông đang nảy nở
cho con công múa, cho con cá bơi,
bông không rụng xuống lòng suối nhỏ,
bay lên trời vạn cánh sao rơi.
Bông lách bay để lại nụ cười.
Tháng ba
rừng Tây Nguyên hoa thắm đỏ,
làng buôn vang tiếng chiêng múa hát,
bầy chim muông cất cánh rợp trời,
sông từng đàn con cá lội bơi.
Tháng ba
tay em dệt khăn hồng
theo cánh chim trời cho người em mến.
Chiều chiều anh dựng lại nếp nhà
Phòng khi qua những đêm ngày giông bão.
Bài thơ không phải được viết trong chiến dịch giải phóng Tây Nguyên-tháng ba năm 1975, mà được tác giả viết vào những năm trước đó, những năm gian khổ, thiếu đói và ác liệt nhất của chiến trường Tây Nguyên. Thân Như Thơ vào bộ đội từ hồi chống Pháp, ra tập kết rồi lại trở vào Tây Nguyên từ năm 1961. “Tháng ba Tây Nguyên” được ông viết từ năm 1963 và đã in trên báo, trong tuyển tập thơ miền Nam. Tuy ra đời trong hoàn cảnh ấy, nhưng đầy chất thơ, chất lãng mạn, chất Tây Nguyên với không gian cảnh trí rất cao nguyên miền thượng (rừng, núi, nương rẫy, chim chóc, voi, hổ, ong, rùa, nấm mối…); rất tháng ba, rất hội hè (với tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng trống ầm vang khắp núi rừng và tiếng hát dài như ngọn gió); đồng thời cũng chan chứa, cũng nặng trĩu một niềm tin với cách mạng, với kháng chiến của đồng bào các dân tộc ở vùng cao nguyên xa xôi anh dũng bất khuất:
Tháng ba
Trời trong xanh như suối ngàn
Cho em múa hát
Cho anh đánh chiêng
Chiêng anh rộn núi rừng, buôn làng
Đưa giọng em vút tận trời xanh
Chim hót theo nghe sao ngọt lành...
Thân Như Thơ trở về chiến trường quê hương chiến đấu chống Mỹ không phải với tư cách một nhà thơ mà là một chiến sĩ pháo binh. Ông và đồng đội của mình đã vượt qua những đoạn đường đầy dốc đèo sông suối, đói rét và bom đạn dọc dãy Trường Sơn vào mãi Tây Nguyên xa xôi. Cuộc vượt Trường Sơn trở lại quê hương, trở lại chiến trường Khu 5-Tây Nguyên lần này đã cho ông thật nhiều cảm xúc, thật nhiều chất liệu để ông sáng tạo nên những trang viết đầy phong vị cao nguyên và cũng thật thơ. Sinh thời, ông có lần tâm sự, dẫu đã xuống đồng bằng, đã ra Thủ đô định cư nhưng tình yêu của ông với Tây Nguyên thì không khi nào phai nhạt. Như câu thơ ông viết:
Đăk Sa ơi!
Con sông xanh chảy mãi xa vời
Sông có băng qua lạch ghềnh lặng lẽ
Sông có chảy về lòng sâu quê mẹ
Gửi cho ta niềm chung thuỷ sắt son
và với ông:
Nhìn dòng sông nào cũng giống Đăk Sa trôi
Nhìn chiếc cầu nào sao cũng đẹp bóng nước gương soi
Tôi nhớ quê tôi Trường Sơn bất khuất
Tôi nhớ quê tôi buôn làng Cà Duột…
Tình yêu của Thân Như Thơ với Tây Nguyên thật sâu đậm, sâu đậm cả trong thơ, trong văn, trong đời sống hằng ngày của ông. Ông bảo, trong tim ông luôn có một làng Cà Duột, có một Tây Nguyên cũng như có một Tiên Phước đã che chở cho ông và đồng đội của ông suốt những năm máu lửa như câu thơ ông viết:
Hỡi miền Tiên Phước mến yêu ơi
Bây giờ nắng hạ đã xanh trời
Ngôi nhà mẹ dựng trên hầm cũ
Nơi ngày qua ấy, mẹ nuôi tôi
Xa-Sơn-Hà-Cầm mấy năm rồi
Hỡi miền Tiên Phước mến yêu ơi!
Trong niềm thương nhớ của lòng tôi
Tình yêu ấy ông ấp ủ, ông nuôi dưỡng trong tim và bật lên thành thơ, thành khúc ca về Tây Nguyên bất hủ. Và, cả mãi tới khi chuyển công tác về Đài Phát thanh Giải phóng, ra Thủ đô... tình yêu ấy vẫn tươi nguyên. Tươi mới, tươi nguyên đến tận phút cuối cùng trước khi nhà thơ về với cõi vô cùng!
Có lẽ, cho tới tận mai sau, chúng tôi vẫn tin rằng, ai đó một lần lên Tây Nguyên, một lần nghĩ về vùng đất xa xôi mà đẹp tươi và bất khuất này không thể không nhớ về một nhà thơ có giọng nói nhỏ nhẹ, gương mặt hiền hậu và chân thành, nhất là nụ cười dịu dàng như “bông lách bay”; không thể không nhớ về ca khúc Tháng ba Tây Nguyên, nhớ tới Thân Như Thơ-một nhà thơ chiến sĩ.
NGÔ VĨNH BÌNH