QĐND - Với 32 chiến sĩ, chỉ trong một đêm, họ bất ngờ đột nhập chiến đấu, tiêu diệt 59 máy bay của Pháp tại sân bay Cát Bi, Hải Phòng. Trận đánh đã làm các tướng Pháp đang chỉ huy tại Đông Dương, nhất là ở chiến trường Điện Biên Phủ sửng sốt...
 |
Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Mai Năng.
|
Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân Mai Năng giờ đã bước sang tuổi 87. 60 năm trước, ông là người chỉ huy phân đội trinh sát tìm đường đánh vào sân bay Cát Bi, sau đó trực tiếp chỉ huy một mũi tấn công sân bay. Trận đánh ấy đến giờ ông vẫn nhớ tường tận, chi tiết.
Thiếu tướng Mai Năng kể: Lúc bấy giờ, tôi là lính trinh sát của tỉnh đội Kiến An nên nắm chắc tình hình. Trên bản đồ tác chiến của Bộ Tổng tham mưu đã chỉ rõ các nhiệm vụ đặc biệt trong Đông Xuân 1953-1954. Các nhiệm vụ tác chiến đó chính là: Trần Đình; Nhiệm vụ đặc biệt và B1. Đây là 3 mật danh của 3 nhiệm vụ ứng với các địa danh: Điện Biên Phủ, sân bay Gia Lâm và sân bay Cát Bi. Lúc bấy giờ, quân viễn chinh Pháp mưu đồ nhảy dù xuống Điện Biên là nhằm: Vừa chốt yểm một lực lượng mạnh “giữa lòng hậu cứ” của đối phương vừa nhử Việt Minh đến để tiêu hao, tiêu diệt chủ lực ta.
Đổ quân lên Điện Biên-xa vùng đất chiếm đóng của Pháp, nên mặc nhiên các sân bay-mà chủ yếu là sân bay Cát Bi trở thành một đầu cầu chủ yếu để trực tiếp chi viện cho Điện Biên. Do đó, địch tổ chức bố phòng rất nghiêm ngặt-mà theo chúng nói “Một con chuột cũng không qua được sự kiểm soát của lực lượng phòng vệ”.
Thời đó, sân bay Cát Bi là cầu hàng không lớn nhất của Pháp ở Bắc Đông Dương, nằm sâu trong hậu phương của địch, 3 mặt giáp sông, biển, tập kết hàng trăm máy bay. Sân bay được bố trí phòng thủ kiên cố với lực lượng của địch thời điểm đông nhất lên tới 7 tiểu đoàn, hàng chục đồn bốt, tháp canh, gần chục hàng rào dây thép gai, bãi mìn cùng nhiều đèn pha chiếu quét “đêm cũng như ngày”. Để bảo đảm an toàn tuyệt đối sân bay, địch dựng một vành đai trắng xung quanh, đồng thời bố trí hệ thống đồn bốt dọc đường 14 đi Đồ Sơn nhằm bảo vệ sân bay từ xa.
Nhận nhiệm vụ đánh sân bay Cát Bi với cấp trên là đồng chí Đặng Kinh, Tỉnh đội trưởng Kiến An. Đồng chí Lê Thừa Giao, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 204 được giao làm Đội trưởng; đồng chí Đỗ Tất Yến, Đại đội trưởng Đại đội 295 làm Đội phó. Tỉnh đội tuyển chọn trong các đơn vị lấy 32 chiến sĩ đủ các tiêu chuẩn đề ra, trong đó đòi hỏi rất cao về “tinh nhuệ và tác chiến”.
Thiếu tướng Mai Năng nhớ lại: "Nhận nhiệm vụ, chúng tôi hết sức lo lắng, vì khó khăn lớn nhất lúc đó là chưa có cơ sở nào của ta ở địa bàn quanh sân bay. Lực lượng trinh sát được giao nhiệm vụ nắm tình hình nhân dân, gây dựng cơ sở và tiếp cận, tìm hiểu thực tế ở sân bay. Cả tháng trời, tổ chúng tôi phải nằm bờ nằm bụi, ăn uống kham khổ mà vẫn chưa tiếp cận được với gia đình người dân nào. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn kiên trì bám trụ đến mức chó nhà dân quen hơi không sủa nữa… Một thời gian sau, công tác chuẩn bị cho trận đánh đã hoàn tất. Mọi người đã đồng tâm hiệp lực, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Đêm 3-3-1954, bộ đội hành quân ra đến bờ sông Văn Úc thì tàu địch giăng khắp phải hoãn lại. Đơn vị nhanh chóng kiểm tra xem có gì sơ hở hay bị lộ không? Địch đã biết kế hoạch của ta chưa? Sau khi kiểm tra đã kết luận: Chưa lộ. Yếu tố bí mật vẫn bảo đảm.
Đêm 4-3-1954, chúng tôi lại xuất kích, lại vẫn gặp tàu chiến địch giăng kín trên sông, chờ mãi đành cho bộ đội quay về. Xem lại và kết luận: Chưa lộ. Ngay đêm 4-3-1954, tại Hà Nội, quân ta đánh sân bay Gia Lâm đã lập công, phá hủy 17 máy bay địch. Vậy là chúng tôi đã lỡ kế hoạch phối hợp với quân dân Hà Nội. Nhưng trong tim mọi người, việc chia lửa với Điện Biên vẫn đang thôi thúc, giục giã.
Tối 5-3-1954, toàn đội xuất kích. Trên sông, tàu địch đã rút. Anh em nhẹ nhàng vượt sông vào giấu quân tại cơ sở thuộc xã Hòa Nghĩa, huyện Kiến Thụy. Đây là địa điểm mà tổ trinh sát chúng tôi, cùng cấp ủy dày công chuẩn bị. Trước, địa điểm này là nơi nằm vùng của cấp ủy. Đến nơi giấu quân bí mật, anh em chúng tôi, có người vùi dưới bãi cát, nằm ngập trong bãi sú… có người ngồi trong bồ thóc của dân… người thì ngồi giữa tấm phên bằng gianh 2 lớp… Đi tuần trinh sát động tĩnh ngoài đường, trong làng… là các đảng viên cơ sở. Mọi hoạt động đều thông qua mật khẩu và tuyệt đối bí mật.
 |
Máy bay của địch bị đốt cháy ở sân bay Cát Bi. Ảnh tư liệu
|
Suốt đêm mồng 5, căng thẳng nhất là cả ngày mồng 6… chúng tôi đợi trời tối để xuất kích.
Đúng 19 giờ ngày 6-3-1954, đội chia thành hai mũi do đồng chí Lê Thừa Giao chỉ huy. Tổ trinh sát của tôi đảm nhiệm một mũi, theo lệnh dãn toàn đội luồn qua lần lượt cả 5 tuyến phòng thủ sân bay, bò qua cả 6 hàng rào kẽm gai đã được cắt sẵn… đến sát đường băng… thì vừa 12 giờ đêm. Sân bay vẫn sáng trắng ánh đèn, chiếu rõ từng dãy máy bay địch: B26, Hen-cát, Mo-ran… đỗ lặng lẽ ngay trước mặt. Trông ngon ăn quá, Bắc, chiến sĩ đi đầu buột miệng: Ngon quá! Cho em…!
Suỵt!-Tôi ra hiệu im lặng.
Toàn đội đã bí mật rải hàng ngang, dọc theo rãnh nước bên đường băng, ứng với đội hình máy bay địch đỗ phía bên kia đã giao cho từng người.
Bỗng một tốp quân Âu-Phi đi qua. Đội trưởng Lê Thừa Giao ra lệnh cho tôi rồi phất tay. Khẩu K50 trong tay tôi rung lên, toán Âu-Phi gục ngã. Tất cả anh em kịp thời tung lựu đạn, pháo thủ… tiêu diệt gọn số còn lại và băng tới mục tiêu của mình.
Nguyễn Việt Bắc nhanh chân nhất, vừa tung thủ pháo vào một máy bay, miệng vừa hô: “Báo cáo Bác Hồ, cháu đánh chiếc thứ nhất. Chiếc Mo-ran bốc cháy. Cháu đánh chiếc thứ hai”…
Cả sân bay ầm vang tiếng thủ pháo, các máy bay địch như những ngọn đuốc khổng lồ. Sân bay Cát Bi biến thành biển lửa. Quân địch trong sân bay bàng hoàng không biết chuyện gì xảy ra. Một số súng máy địch cố bắn vút lên trời. Lệnh rút lui. Đường rút đã được mở rộng, toàn đội nhanh chóng rút ra. Bấy giờ, trên đường băng sân bay rầm rập loại xe kích, xe cứu hỏa… của địch, chúng kéo còi ầm ĩ, nháo nhác. Trên trời, pháo sáng của chúng càng giúp anh em nhận rõ đường rút… Cả sân bay Cát Bi náo động trong âm thanh hỗn loạn, lửa cháy ngút trời"…
Trong lúc Thiếu tướng Mai Năng đang xúc động kể về trận đánh thì ông Nguyễn Văn Ngọc, "Dũng sĩ Cát Bi" lặng lẽ ngồi bên cạnh thủ trưởng của mình. Lúc này, ông mới nhẹ nhàng tiếp chuyện: Khi rút lui, chúng tôi đưa thương binh đi trước, toàn đội lần lượt theo sau. Lúc ấy, tôi vừa bò lên được mặt đê thì nghe đồng chí Chỉnh báo cáo Đội trưởng Lê Thừa Giao là còn thiếu đồng chí Phong, xin được vào tìm. Chỉnh chưa kịp vào thì chúng tôi đã nghe tiếng lội bì bõm. Chỉnh quay lại nói như quát:
- Ai đấy?
- Em Phong đây.
Chỉnh mừng quá:
- Sao ra chậm thế?
- Dung bị thương, em phải lấy thủ pháo của nó vào đánh nốt chiếc còn lại nên ra chậm.
Thế là chúng tôi nhanh chóng vượt qua đường 14 vào thôn Hợp Lễ đã được bà con đón dọc đường đưa xôi, chè, nước… Anh em cảm ơn nhận lấy, húp vội bát chè, bát nước, cầm nắm xôi, chạy ra chân đê để tiếp tục vượt sông theo kế hoạch, phòng xa hôm sau địch càn. Tại đây, các đồng chí lãnh đạo tỉnh, quân khu… ra đón mừng anh em vừa lập công. Ngay lập tức, điện báo cáo chiến công lên Bác Hồ đã được chuyển. Hôm sau, trên Đài Tiếng nói Việt Nam đã báo tin: “Chiến thắng Cát Bi, 59 máy bay địch bị phá hủy. Cát Bi đã chia lửa cùng với Điện Biên Phủ.”
Sau chiến thắng, Bác Hồ đã gửi điện khen và tặng toàn đội danh hiệu “Dũng sĩ Cát Bi”; đơn vị được tặng Huân chương Quân công hạng nhất; Tỉnh đội trưởng được tặng Huân chương Quân công hạng nhì; 3 đồng chí Mai Năng, Bùi Văn Cương và Nguyễn Văn Phong được tặng Huân chương Quân công hạng ba. Tất cả anh em trong đội còn lại đều được tặng Huân chương Chiến công (hồi đó còn gọi là Chiến sĩ) hạng nhất.
Bài và ảnh: TRỊNH DŨNG – THẾ NGỌC