QĐND - Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng Chính phủ, trong chiến dịch Đường 9-Nam Lào là Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn. 40 năm đã trôi qua, cho đến hôm nay khi trả lời phỏng vấn của PV Nguyệt san SK&NC, ông vẫn hào sảng khi phân tích về mưu kế tài tình của Quân ủy Trung ương và Bộ tư lệnh chiến dịch, trầm lắng khi nhắc đến những cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong đã ngã xuống trên chiến trường Trường Sơn anh hùng...

Ông Đồng Sĩ Nguyên. Ảnh: Lê Trung Nguyên

PV: Thưa ông, lớp hậu sinh chúng tôi hôm nay đọc lại các bài viết của các nhà báo phương Tây về chiến dịch Đường 9-Nam Lào đều thấy rằng, cuộc hành quân Lam Sơn 719 của Mỹ-Quân đội Sài Gòn thất bại từ khi làm kế hoạch. Tại sao vậy? Tại sao biết rằng quân ta ở Đường 9 rất mạnh mà đối phương vẫn liều lĩnh đem quân đến?

Ông Đồng Sĩ Nguyên: Cần phải thấy bối cảnh ở chiến trường miền Nam Việt Nam năm 1970 như thế này:

Sau khi thất bại ở chiến lược Chiến tranh Đặc biệt và Chiến tranh Cục bộ, cộng với sức ép của ta trên bàn đàm phán và phong trào phản đối chiến tranh lan rộng khắp thế giới, Mỹ thực hiện một bước “lùi trong danh dự”: Đề ra chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Bản chất của chiến lược này là dùng quân đội Sài Gòn dần dần thay thế quân đội Mỹ và chư hầu trên chiến trường. Mỹ vẫn chỉ huy thông qua hệ thống cố vấn và viện trợ về tiền tài, trang thiết bị kỹ thuật và tham chiến bằng hỏa lực không quân và hải quân. Nhưng muốn quân đội Sài Gòn đủ sức chống cự với Quân Giải phóng thì mục tiêu có tính chiến lược của Mỹ là cắt đứt vĩnh viễn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh. Và họ nghĩ ngay Đường 9.

Tuổi trẻ ở Trường Sơn. Ảnh: Đoàn Công Tính

Thực chất thì Mỹ thực hiện việc này từ 7 năm về trước, khi Đoàn 559 còn vận tải ở dạng gùi, thồ. Với việc dùng bộ binh rải hai bên Đường 9 chốt chặn đường vận chuyển của ta, Mỹ đã làm cho ta hết sức khó khăn, phải chuyển hướng sang phía Tây Trường Sơn. Nay thực hiện “Việt Nam hóa chiến tranh”, các nhà quân sự Mỹ nhớ lại việc đó nên chủ trương mở một cuộc hành quân lớn bằng bộ binh, không quân dọc Đường 9 để chốt chặn các điểm quan trọng, phá các cơ sở kho tàng của ta để thực hiện âm mưu trên.

Tôi nghĩ, không phải Mỹ không biết lực lượng của ta ở Đường 9 mạnh. Nhưng ỷ thế vào sức mạnh của bom đạn, các nhà quân sự Mỹ đã chủ quan, không đánh giá đúng nghệ thuật chiến tranh của Đảng ta và sức mạnh của cuộc chiến tranh nhân dân.

- Thưa ông, với cương vị Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn, ông có bất ngờ không khi đối phương mở một cuộc hành binh lớn chưa từng thấy từ trước đến lúc đó?

- Sau khi Mỹ có chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, trong một tài liệu mật của họ mà tình báo chiến lược ta nắm được, có đề ra việc cắt đứt vĩnh viễn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam. Chúng ta đã dự đoán muốn thực hiện kế hoạch đó, Mỹ-Thiệu phải mở một chiến dịch binh chủng hợp thành quy mô lớn tiến công vào Đường 9.

- Như vậy, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã nắm chắc được kế hoạch cuộc hành quân Lam Sơn 719 của đối phương?

- Đúng như vậy! Sau này tổng kết chiến dịch, chúng tôi thấy tình báo chiến lược của ta cung cấp tin tức chính xác đến 70%, kể cả thời gian, quy mô cuộc hành quân, chiến thuật và sự phối hợp giữa các lực lượng của đối phương.

Chính nắm rất chắc địch cộng với sự cảm nhận thiên tài về quân sự mà trước khi xảy ra chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Tư lệnh QĐND Việt Nam đã hai lần vào làm việc với Bộ tư lệnh Trường Sơn.

Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn Đồng Sĩ Nguyên báo cáo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp kế hoạch chuẩn bị chiến dịch Đường 9-Nam Lào. Ảnh tư liệu

Lần thứ nhất là đầu tháng 12-1970, có anh Văn Tiến Dũng, lúc đó là Tổng Tham mưu trưởng, đi cùng. Sau khi nghe tôi báo cáo về tình hình khu vực Đường 9, sự chuẩn bị của Bộ đội Trường Sơn về đường sá, thông tin, lực lượng phòng không… Anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp) nói dự kiến cuộc hành quân của Mỹ-ngụy và ý định Bộ sẽ đưa tiếp 2 sư đoàn cơ động vào chiến trường này.

Cuối tháng 12-1970, anh Văn vào lần thứ hai. Lần này anh giao nhiệm vụ cụ thể cho Bộ đội Trường Sơn. Sau đó, Đại tướng nói với chúng tôi rằng: Chiến dịch này là cơ hội cho ta diệt địch, cho nên các lực lượng ở Đường 9 không được bộc lộ. Cần phải làm cho địch nhầm tưởng lực lượng của ta ở đây yếu để chúng đưa quân lên càng nhiều càng tốt. Các lực lượng phòng không ở Đường 9 rất mạnh, nhưng chỉ được sử dụng khi trực thăng địch bay từ 50 chiếc trở lên. Cần phải làm cho chúng lên nhiều nhưng không về được. Sau này tình hình chiến sự xảy ra đúng như vậy.

Tôi còn nhớ anh Văn dặn tôi rằng: Chiến dịch này là một bước xoay chuyển về chiến lược, ta sẽ chuyển sang thế trận hoàn toàn chủ động cả về chiến đấu và chi viện. Cho nên việc chuẩn bị cho một bước phát triển mới cần làm hết sức quyết liệt, trước hết là Tây Nguyên… Sau này tôi mới hiểu, trong tư duy chiến lược lúc đó, Bộ Tổng tư lệnh đã nhắm đến chiến dịch Tây Nguyên…

- Như vậy, chiến dịch Đường 9-Nam Lào đều là sự mong muốn của hai bộ Thống soái tối cao của hai bên?

- Như tôi đã nói ở trên, Mỹ-Thiệu mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 là muốn vĩnh viễn cắt đứt sự chi viện của miền Bắc vào chiến trường miền Nam, bảo vệ học thuyết “Việt Nam hóa chiến tranh”, còn ta thì mở chiến dịch Đường 9-Nam Lào là để đánh quỵ ý đồ của địch, buộc chúng vĩnh viễn chấm dứt việc ngăn chặn con đường chi viện của ta, hay nói như anh Văn là: “Cho chúng một trận khiếp vía”. Như vậy, trong ý đồ chiến lược của hai phía, Đường 9 - Nam Lào là nơi tranh chấp quyết liệt giữa ngăn chặn và chống ngăn chặn. Cho nên đây là cuộc đụng độ của hai quyết tâm lớn muốn thay đổi cục diện chiến trường, nên cả hai đều tung vào đây những lực lượng mạnh nhất để tham chiến. Có điều, quân đội Sài Gòn dù được sự yểm trợ tối đa của hỏa lực và không quân Mỹ, rất kém tác chiến ở địa hình rừng-núi, lại rơi đúng vào thế trận bày sẵn của quân và dân ta nên thất bại là không tránh khỏi. Trong chiến dịch, có lần anh Văn Tiến Dũng bảo tôi: Mỹ-ngụy làm cuộc hành quân này khác gì “mía đút chuồng voi”!

- Ông vừa nói đến việc Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo nghi binh chiến dịch. Đây là sở trường của QĐND Việt Nam. Vậy mưu kế ở chiến dịch này có gì khác với Chiến dịch Tây Nguyên 1975?

- Chiến dịch Tây Nguyên là ta vu hồi, đánh giả ở Plei-cu, đánh thật ở Buôn Ma Thuột, còn chiến dịch này ta làm cho địch tưởng ta suy yếu để chúng kéo quân ra càng nhiều càng tốt. Thực hiện chỉ đạo của anh Văn, các lực lượng của ta ở Lao Bảo, Sê-pôn, Khe Sanh… những nơi ta đã giải phóng, phải giấu kín không được bộc lộ. Đây là cuộc nghi binh chiến dịch. Trúng kế của ta, địch tung một lực lượng lớn, gồm Quân đoàn 1-Quân khu 1, bổ sung thêm các lực lượng thiện chiến nhất thuộc quân tổng trừ bị như Sư đoàn dù, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, Biệt động quân… Lúc này, Lực lượng phòng không của Bộ đội Trường Sơn tập trung ở Đường 9 rất mạnh, gồm 1 trung đoàn tên lửa, 5 trung đoàn cao xạ. Riêng súng máy 12,7 mm và 14,5 mm, lực lượng diệt trực thăng lợi hại, chúng tôi có tới 21 đại đội. Do chúng ta giấu kín lực lượng, ngày đầu chiến dịch chỉ sử dụng hỏa lực bộ binh nên địch chủ quan, điều động một lúc 600 máy bay trực thăng chiến đấu. Gặp lưới lửa phòng không dày đặc của ta được bố trí sẵn, 120 máy bay trực thăng của Mỹ rơi tại chỗ. Việc đổ quân của chúng xuống các cao điểm để chốt chặn con đường chi viện vào Nam của ta không thực hiện được. Có nơi quân địch hoảng loạn, phải bám càng trực thăng để tháo chạy như ảnh báo chí phương Tây đã đăng.

- Trong chiến dịch này, vai trò của Bộ đội Trường Sơn như thế nào, thưa ông?

- Sau khi anh Văn về Hà Nội, anh Văn Tiến Dũng được phái vào chỉ đạo chung chiến dịch. Sau đó, Bộ tư lệnh chiến dịch được thành lập do anh Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, anh Lê Quang Đạo làm Chính ủy. Anh Văn Tiến Dũng phân công: Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ đạo thống nhất Đông-Tây Trường Sơn, nhưng phía Đông Bộ tư lệnh chiến dịch trực tiếp chỉ huy, đánh địch hành quân dọc theo Đường 9, từ Đông Hà lên Khe Sanh; còn phía Tây Bộ tư lệnh chỉ đạo thông qua Bộ tư lệnh Trường Sơn. Chúng tôi thành lập Bộ tư lệnh Trường Sơn ở tiền phương đóng ở Sê-pôn, cử anh Nguyễn Hòa làm Tư lệnh, anh Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy.

Lúc này, Sư đoàn 2 của Quân khu 5 do anh Nguyễn Chơn làm Sư đoàn trưởng ra Trường Sơn thay đổi trang bị vũ khí và huấn luyện một tháng. Gặp chiến dịch, Bộ Tổng tư lệnh giữ lại và tăng cường cho Bộ tư lệnh Trường Sơn. Như vậy, phía Tây Trường Sơn có 2 sư đoàn bộ binh: Sư đoàn 2 của Quân khu 5 và Sư đoàn 968 của Bộ đội Trường Sơn; còn phía Đông có 3 sư đoàn cơ động của Bộ. Bộ đội Trường Sơn đảm nhiệm làm đường sá, thông tin, hậu cần, cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng cường cho cánh đông 1 trung đoàn cao xạ, 2 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn xe vận tải.

Tiếp tục đánh chiếm các cứ điểm Bản Đồng. Ảnh: Đoàn Công Tính

Như vậy, Bộ đội Trường Sơn làm hai nhiệm vụ: Vừa bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho toàn bộ chiến dịch vừa là một cánh quân của Bộ tư lệnh chiến dịch. Đây là chiến dịch quy mô lớn nhất từ trước đến lúc bấy giờ, được Bộ đội Trường Sơn chuẩn bị tốt. Đường sá tốt, thông tin được đảm bảo đến tận đại đội, bộ đội được xe cơ giới chở đến tận nơi chiến đấu…

- Thưa ông, có phải đây là lần đầu tiên chúng ta tác chiến hiệp đồng binh chủng?

- Lần đầu tiên ta tổ chức một chiến dịch hiệp đồng Đông-Tây, hiệp đồng giữa các chiến trường, là sự phối hợp tác chiến quy mô lớn giữa quân cơ động của Bộ và quân chủ lực của chiến trường Trường Sơn, Trị Thiên, Quân khu 5. Chúng ta chuẩn bị hỏa lực mạnh chưa từng có, ngoài phòng không thì pháo binh, xe tăng cũng rất mạnh. Đây là chiến dịch điển hình nhất về chuẩn bị cơ sở vật chất, còn về tác chiến thì ta làm chủ hoàn toàn từ đầu đến cuối. Một chiến dịch mà từ đồng chí Bí thư thứ nhất, đồng chí Tổng tư lệnh đến chiến sĩ đều phấn khởi. Cho nên sau chiến dịch, anh Lê Trọng Tấn có gọi điện cho tôi, nói: “Tớ đánh rất nhiều chiến dịch rồi nhưng chưa có chiến dịch nào đánh thoải mái như chiến dịch này”.

- 40 năm đã trôi qua, giờ đây nhắc lại chuyện cũ, tôi vẫn thấy ông rất xúc động…

- Bây giờ nói chuyện với anh giữa mùa xuân thanh bình của Hà Nội, tôi nhớ khôn nguôi mùa xuân chiến trường Đường 9-Nam Lào năm xưa. Tôi nhớ anh Văn Tiến Dũng, vị tướng có tầm nhìn chiến lược lớn, một người ít nói, chắc chắn, chặt chẽ, mưu lược, sáng tạo và rất sâu sát chiến trường; nhớ các anh trong Bộ tư lệnh chiến dịch: Lê Trọng Tấn, Lê Quang Đạo, Cao Văn Khánh…; nhớ biết bao cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong đã ngã xuống vì sự sống còn của con đường, vì sự toàn thắng của chiến dịch.

Mỹ - chính quyền Sài Gòn thất bại trong chiến dịch này là đương nhiên, là được dự báo trước. Nhưng nói rộng hơn, dù chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” hay chiến lược nào đi chăng nữa thì mọi kẻ thù đến xâm lược nước ta đều thất bại. Bởi vì với nghệ thuật quân sự đặc sắc kế thừa truyền thống cha ông của Đảng ta, với cuộc chiến tranh dựa vào nhân dân về tinh thần, sức người, sức của thì đó là sức mạnh vô địch, cho dù đối phương có lắm tiền bạc. Hàng nghìn đời nay, những kẻ xâm lăng vẫn không đánh giá đúng lòng yêu nước nồng nàn, chí căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta, sự đoàn kết, đồng lòng của mọi lứa tuổi khi Tổ quốc gặp nguy biến.

Tôi nghĩ, đó là tài sản vô giá của đất nước không chỉ trong chiến tranh, mà trong xây dựng đất nước giàu mạnh hiện nay.

- Xin cảm ơn ông! 

Hồng Sơn (thực hiện)