Thực lòng mà nói, tôi vô cùng khó quên những câu thơ ấy. Chiến tranh đã lùi xa, lùi quá xa, ký ức của người trong cuộc không lưu giữ được hết tất cả những gì từng thuộc về mình, kể cả các tác phẩm đã đọc kỹ thời hào hùng, gian khổ đó. Nhưng với tôi thì truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” của Nguyễn Minh Châu và một số bài thơ về Trường Sơn của Phạm Tiến Duật như: “Lửa đèn”, “Nhớ”, “Gửi em, cô thanh niên xung phong”, “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” và tất nhiên không thể không kể tới “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây” vẫn được bảo lưu kỹ càng. Bởi cái lõi của những tác phẩm ấy, không gì khác chính là tình yêu, nói chuẩn xác là tình yêu chung-riêng hòa quyện, quấn quýt vào nhau một cách hồn nhiên, đằm thắm và trong trẻo giữa nanh vuốt thần chết đang hau háu đói mồi thanh xuân.

Nhắc đến tình yêu, bỗng nhiên tôi lại nhớ tới Phon Say, cô văn công Lào có gương mặt trăng rằm hát lăm tơi rất hay. Tôi gặp cô gái đến từ xứ sở hoa chăm pa ấy khi đang là học sinh năm cuối Trường cấp 3 Bố Trạch (Quảng Bình) lúc này ở xã Cự Nẫm. Tôi nhớ mãi chiếc váy ống không che hết “bắp chân to” của cô bạn nhinh nhỉnh tuổi mình, nụ cười sáng và cách nói tiếng Việt rất sõi của Phon Say. Khi tôi đọc “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, cô hơi nghiêng nghiêng đầu nghe chăm chú rồi nói: “Hay thật bạn ạ. Một dãy núi mà hai màu mây. Bên mình gọi dãy Trường Sơn là Phu Luông đấy”. Phon Say nhìn tôi, rồi bỗng nhiên cất tiếng hát một ca khúc Việt mà có lẽ cô từng hát phục vụ bộ đội Pathet Lào và Quân tình nguyện Việt Nam. Giọng hát cao vút, hào hùng và tha thiết: Trên đỉnh Trường Sơn, ta gặp nhau giữa đường đi chiến đấu. Anh giải phóng quân Lào, biên giới đẹp sao. Cây lá lao xao, rộn ràng lẫn trong màu áo những người chiến sĩ yêu nước Lào. Trường Sơn mây núi bao la, lối quân đi bước mòn sỏi đá. Trường Sơn hai nước chúng ta đã ghi tạc nghĩa tình từ xưa...

leftcenterrightdel
Bộ đội Trường Sơn dạy chữ cho các cô gái Lào. Ảnh: PHẠM THÀNH LONG 

Tôi, chàng trai Việt mới lớn, ngất ngây trước vẻ xinh tươi, hồn hậu và giọng hát sáng đẹp của một mỹ nhân đất nước triệu voi và sau này, khi trở thành người lính Trường Sơn thì cảm nhận về mối tình đặc biệt giữa hai đất nước ở hai mái Trường Sơn ngày càng đầy đặn và sâu sắc. Tuổi mười tám, Binh nhì Nguyễn Hữu Quý đã viết được bài thơ “Nghe hát lăm tơi” và dường như hình bóng cô gái Lào Phon Say thấp thoáng trong đó: Ngỡ như được hát với em/ Khúc lăm tơi ấy giữa đêm trăng Lào/ Gió về hoa trắng lao xao/ Hoa quen, câu hát quen sao ơi người/ Anh chưa hát được lăm tơi/ Nhưng yêu đất ấy yêu rồi từ lâu/ Ơi dòng suối đổ về đâu/ Mà nên câu hát trao nhau bây giờ/ Biết nhau từ thuở ngày xưa/ Phu Luông một dải nắng mưa hai miền/ Chăm pa năm cánh hoa hiền/ Phải trăng của biển đã lên với rừng/ Giữa mùa lúa ngát lưng nương/ Chim buông hương nắng, mây vương mái sàn... Kỷ niệm của lần gặp duy nhất giữa tôi và cô gái Lào chỉ còn lưu dấu trong một bài thơ vụng về, chưa thêm cuộc nào nữa để tôi được ngắm nhìn gương mặt trăng rằm vằng vặc ấy. Cô gái Lào ơi, “noọng” đang ở đâu bên kia dãy Trường Sơn trùng điệp-báu vật muôn đời của hai đất nước chúng ta, xương sống để tựa vào của hai non sông, hai dân tộc có những tương đồng kỳ lạ về số phận, bản lĩnh, hành trình dựng nước và giữ nước xưa-nay?

Trường Sơn, cái dãy núi hai màu mây ấy, cái điệp trùng “bên nắng đốt, bên mưa quây” ấy là nhân chứng vĩ đại trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược của hai nước Việt-Lào anh em. Thật đúng như đúc kết giản dị mà sâu sắc của Bác Hồ: “Việt-Lào hai nước chúng ta/ Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”. Hàng chục năm chung chiến hào chống kẻ thù chung, tuy hai mà một, mối tình Việt-Lào thực sự đặc biệt và mẫu mực trong thế kỷ 20, 21. Hiếm có hai dân tộc nào mà hạt gạo, hột muối cũng chia đôi, hơn thế nữa, chúng ta còn chia lửa, chia bom, chia từng gian khổ, mất mát, hy sinh. Giữa rừng Lào đến bây giờ vẫn còn những nấm mộ của bộ đội tình nguyện Việt Nam hy sinh trong chiến tranh.

Tôi từng nghe một cựu chiến binh vốn là bộ đội tình nguyện Việt Nam kể, đồng đội của anh khi hy sinh được anh em chôn ở đất Lào và được đánh dấu bằng một gốc tre tươi. Mấy chục năm sau, khi các anh sang đó tìm đồng đội thì thấy trước mắt mình bạt ngàn, ngun ngút một rừng tre xanh. May mắn, nhờ sự mách bảo vô hình, chưa giải mã được của người hy sinh, các anh tìm được đồng đội và đưa về đất mẹ Việt Nam. Tôi đã cảm tác viết: Anh ngã xuống ở rừng Lào/ một nấm mộ bên kia dãy Trường Sơn đắp vội/ chẳng biết lấy gì đánh dấu cho đồng đội/ chúng tôi trồng bên cạnh một gốc tre/ Mấy mươi năm sau giữa róng riết mùa ve/ tóc bạc, da mồi chúng tôi đi tìm người đã khuất/ địa danh vẫn đây mà mộ anh thất lạc/ có rừng tre rậm rạp trước mặt mình/ “Ở nơi nào hỡi đồng đội anh linh”/ chúng tôi khấn, lời tan vào gió núi/ chợt bừng sáng giữa lòng lời bạn nói/ “Gốc tre xưa nay đã mọc thành rừng”...

leftcenterrightdel

Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước. Ảnh: LÊ MINH TRƯỜNG

Con đường Hồ Chí Minh huyền thoại với 5 trục dọc và 21 trục ngang thời chống Mỹ có đoạn chạy trên đất Lào. Những cánh rừng Lào che chở cho con đường chuyển quân, chuyển lương thực, chuyển vũ khí vào miền Nam. Từ nơi em gửi đến nơi anh/ Những đoàn quân trùng trùng ra trận/ Như tình yêu nối lời vô tận/ Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn (thơ Phạm Tiến Duật). Và, tình hữu nghị Việt-Lào cũng xứng đáng được gọi là huyền thoại. Từ chiến tranh sang hòa bình, từ chiến đấu đến xây dựng, Việt-Lào luôn sát cánh bên nhau, tạo nên những giá trị không thể cân đong đo đếm được. Câu nói này đã trở thành quen thuộc với Việt Nam: “Giúp bạn là tự giúp mình”, hình tượng “môi hở răng lạnh” thật trùng khít với quan hệ hai nước. Có lẽ cũng nên nhắc lại lời Chủ tịch Souphanouvong: “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào-Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên hàng đầu cho việc tăng cường mối quan hệ đặc biệt vừa là đồng chí, vừa là anh em giữa Việt Nam và Lào”. Cây hữu nghị Việt-Lào vươn cao, tỏa rộng, ra hoa, kết trái tốt đẹp.

Tôi đã mấy lần đến Lào và luôn mong được trở lại xứ sở tươi đẹp, hiền hòa đó. Đất nước với dân số hơn 7 triệu người, có dòng chảy Mê Công ở phía Tây và tựa vào dãy Phu Luông (Trường Sơn) ở phía Đông luôn hấp dẫn du khách. Lào, đi tới đâu ta cũng gặp chùa. Ở Lào hiện có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ. Có những ngôi chùa cổ nổi tiếng như That Ing Hang ở Savannakhet hay That Luang ở Vientiane... Lại có những ngôi chùa nhỏ bé đơn sơ, cột gỗ, mái tôn, bốn phía không thưng che gì cả. Tượng Phật được đặt trong đó trông thật gần gũi với mọi người. Nói đến đất nước Lào là nói tới đạo Phật. Chắc chắn đạo Phật ở Lào đã thấm vào thật sâu, thật bền trong nhịp sống hiện tại của người dân xứ sở hoa chăm pa. Nhịp sống ấy có thể gói gọn trong hai từ: Chậm rãi, hiền hòa. Phải chăng đó là tính Phật. Đạo Phật đã thành công trong việc cảm hóa và giác ngộ dân tộc này. Những ngôi chùa tôi đến đông đúc người tham quan, nhưng không hề có cảnh chen lấn, ồn ào. Lễ vật dâng cúng Phật cũng khá đơn sơ, thanh bạch. Mấy bông sen trắng, một nén hương, thế thôi. Đúng là “lễ bạc lòng thành” như người Việt thường căn nhủ. Hoa và hương, dân bày bán dọc đường vào chùa, có cả trẻ em bán nữa, nhưng ai cũng nhẹ nhàng, chẳng kì kèo nói thách hay lẽo đẽo bám theo du khách.

leftcenterrightdel
 Bộ đội Trường Sơn biểu diễn văn nghệ trên đất bạn Lào. Ảnh: PHẠM THÀNH LONG

Vào chùa là chậm rãi bước đi, chậm rãi như đang đếm bước chân mình, hay như để bàn chân từ tốn hôn mẹ đất vậy. Chậm rãi thắp hương, chậm rãi quỳ xuống khấn vái. Những gương mặt hồn hậu, đắm chìm trong trang nghiêm, thành kính và tin cậy. Bên kia Trường Sơn có một dân tộc đáng yêu như vậy. Tôi thấy Lào-Việt có những tương hòa trong giá trị cốt lõi văn hóa truyền thống. Cũng đề cao minh triết sống “thương người như thể thương thân”; cũng hướng tới thực hành quan niệm nhân sinh “ở hiền gặp lành”. Cái tương hòa về văn hóa là nền tảng thuận chiều cho việc xây đắp sự gắn kết thân thiện bền vững; luôn biết mình, biết ta; lấy yêu quý và trân trọng làm tiêu chí ứng xử bình đẳng, không phân biệt lớn-bé, giàu-nghèo...

Tôi nghĩ, hai đất nước Việt-Lào đã làm được điều đó và không thể nói khác được, đó chính là hồng phúc của hai dân tộc. Việt Nam và Lào đều tựa vào trùng điệp Trường Sơn. Đất nước hoa sen của tôi và đất nước hoa chăm pa của Phon Say vẫn kề vai sát cánh trong công cuộc dựng xây đất nước và giữ gìn Tổ quốc hôm nay. Vượt lên tình láng giềng thông thường, chúng ta có tình hữu nghị đặc biệt. Bao nhiêu điều tốt đẹp ẩn chứa trong hai tiếng “đặc biệt” đó. Và tôi vẫn hằng tin sẽ có ngày gặp lại cô bạn Lào xinh tươi thuở mười bảy, đẹp như trăng rằm tỏa sáng hai mái Trường Sơn. Dẫu cho có là cuộc gặp gỡ trong mơ thì tôi vẫn đợi, nàng chăm pa nhé!

Nhà văn NGUYỄN HỮU QUÝ