Bao kỷ niệm một thời làm phóng viên chiến trường của Đại đội 28, phóng viên tiền phương của Tổng cục Chính trị những ngày tác nghiệp tại Trung đoàn 48 và K3 bộ đội địa phương Quảng Trị, hiện lên trong tâm trí tôi.

Giữa tháng 8-1972, Mặt trận Quảng Trị sôi sùng sục như dầu trên vạc. Bộ tư lệnh B5 trên Trạm T70 cũng vậy. Các câu hỏi của Bộ Tổng tư lệnh từ Hà Nội vào khiến tư lệnh chiến trường bị quay như chong chóng. Tổng tư lệnh gọi thẳng vào tiền phương mặt trận thành cổ, dây điện thoại ưu tiên số 1 đứt, tổ thông tin của Mai Ngọc Thoảng thuộc Trung đoàn 48 liều mình cầm dây để dòng điện chạy qua thân, kệ cho điện giật. Hậu phương, tiền phương cần câu trả lời bằng hình ảnh từ chiến trường. Đại đội phóng viên tiền phương được lệnh cử người vào thành cổ. Đích thân Thượng tá Phạm Hồng Cư, phái viên của Tổng cục Chính trị (sau này là Trung tướng, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị) ra trạm khách giao nhiệm vụ cho Trung úy Trần Huy Vĩnh Ổn phụ trách nhóm phóng viên tiền phương ở lại T70 phải thi hành mệnh lệnh này với nguyên tắc “tuyệt đối bí mật và an toàn”. Tôi và nhà báo Nguyễn Đức Thiện nhận lệnh thi hành nhiệm vụ này. Lúc đó, Thiện không biết nhiệm vụ của tôi, tôi cũng không biết nhiệm vụ của Thiện, chiến tranh là thế! Trước khi vào thành cổ, tôi và Thiện trao nhau mảnh giấy ghi rõ địa chỉ của nhau, để nếu ai chết, người kia còn sống về báo tin nơi mất cho gia đình. Tôi đã để địa chỉ của anh trai mình ở Báo Tuyên Quang cho Thiện, mà không để địa chỉ người yêu chỉ vì sợ em không chịu nổi khi nghe tin tôi hy sinh!

leftcenterrightdel
Một góc Thành cổ Quảng Trị (tác giả đứng bên phải). Ảnh: TRẦN HIỀN

Gần 5 giờ chiều 27-8-1972, sau khi ăn bữa cơm cuối cùng với mấy anh bảo vệ hậu cứ của K3 bộ đội địa phương Quảng Trị, tổ 3 người gồm: Hà Huy Thành (quê Hà Tĩnh), Ngô Văn Đợi (quê Hải Dương) và tôi lên đường. Thành mang súng AK và 3 băng đạn, Đợi chỉ thích đánh nhau bằng lựu đạn nên thắt lưng đeo đầy lựu đạn mỏ vịt của Mỹ. Tôi được giao một khẩu súng ngắn côn 45 và đặc biệt được trao một quả lựu đạn nổ tức thì chỉ nhỏ bằng ngón chân cái. Tôi biết, tôi không được sa vào tay giặc. Nếu bị chúng bắt, tôi phải rút chốt lựu đạn tự sát, không được để lộ bất cứ thứ gì về nhiệm vụ và nơi đóng quân của Bộ tư lệnh tiền phương trên Trạm T70. Tôi chỉ biết hai đồng chí làm bảo vệ cho mình, còn hai đồng chí cũng không được biết nhiệm vụ của tôi. Mãi 37 năm sau khi tìm được Đợi, tôi mới biết, hai người được giao nhiệm vụ nếu tôi bị thương hay hy sinh, họ phải mang bằng được máy ảnh và phim chụp từ chiến trường về bộ tư lệnh.

Bữa ăn đó quá ngon, ngon nhất trần đời. Suốt nhiều tháng ròng trên T70 tôi không được ăn rau xanh trừ tai voi và môn thục, không được ăn thịt tươi sống, chỉ có rau khô ép, ruốc B mặn chát và thịt hộp. Bữa cơm đó ở cứ K3 có cả một đĩa rau lang tú ụ do chú Vược thông tin K3 đi hái về. Mâm đầy ắp thịt bắp bò, gan bò và cả thứ lòng bò khoái khẩu uống với bia lon của Mỹ do anh em K3 đi lấy thịt con bò bị trúng bom chết trên Đường 1 mang về. Hơn thế, lần đầu tiên trong đời lính, tôi còn được uống cả nước xoài hộp. Vừa ăn uống vừa thầm nghĩ, các bạn sợ mình làm ma đói, ma khát hay sao mà cho mình ăn ngon thế? Đằng nào cũng chết, giờ chưa chết, hãy chén cái đã! Thành và Đợi nhìn tôi ái ngại lắm, họ có kinh nghiệm chiến trường hơn tôi, nên họ ăn uống rất dè dặt.

7 giờ tối, 3 anh em lò dò ra bến vượt ở thôn Nhan Biều, huyện Triệu Phong, đối diện bên kia sông là thành cổ chiến địa. Vừa chạm chân vào mép nước thì pháo sáng địch bừng lên, tất cả rõ như ban ngày. Không chạy là chết. Thành hô chạy. Lúc này, pháo tọa độ cứ thi nhau rót xuống sông, chặn trước, chặn sau lưng 3 anh em. Cắm đầu cắm cổ mà chạy, thở ra đằng tai cũng chạy. Gai tre đâm thủng dép đúc chọc vào gan bàn chân lúc nào không biết vẫn cắm cổ chạy, đúng là “đứng nó cối, ngồi nó cối, nằm nó càng cối”, giờ thì “chạy nó cũng ra sức cối”, ù tai, hoa hết cả mắt. Đang chạy thì một quả pháo lóe sáng trước mặt, Thành lao đến đè lên mình tôi che đạn. Thoát quả đạn pháo, Thành hổn hển hỏi: “Anh sao, máy sao?”. Tôi chỉ nói mỗi câu: “Ổn!”, thế là lại vùng dậy chạy lên bờ sông. Tưởng chúng tôi đã chết, địch thôi không bắn pháo nữa.

Đang lò dò qua các bụi tre chỉ còn thân cây chơ chỏng, bất ngờ cả 3 bị một nhóm người từ đâu xuất hiện quật ngã rồi đấm túi bụi vào mặt, vào bụng không thể đỡ nổi. Đánh chán bên ngoài, họ lôi vào hầm thi nhau dùng cạnh dép cao su đúc tẩn vào đầu, vào mặt, vào lưng bọn tôi. Kêu là bộ đội, họ hỏi, tại sao trả lời mật khẩu “Tam Đảo”? Vì đêm đó mật khẩu đã đổi thành “Trường Sơn” không ai trong nhóm biết. Đưa giấy giới thiệu của B5 ra, họ càng đánh. Thôi thì kệ các ông đánh, cứ lấy tay che mặt, che đầu cho khỏi vỡ đầu, vỡ mặt để còn chụp được ảnh là được.

Một lúc sau có ông cán bộ vào kêu cánh lính dừng tay và nói:

- Chúng tôi đã điện lên trên, đúng anh là nhà báo. Xin lỗi anh, chúng tôi là đặc công mặt trận, tưởng thám báo nên chúng tôi bắt, ai ngờ, thành thật xin lỗi anh!

Cáu quá, tôi phải nói:

- Bố thẩm tra chậm tý nữa thì lính đặc công của bố chắc chắn sẽ xả thịt con làm trăm mảnh. Đau quá!

Hơn 4 giờ sáng, cánh đặc công dẫn chúng tôi đến một mô đất cao hối thúc chúng tôi vượt sông ngay. Vừa lúc đó, pháo sáng của địch lại sáng rực mặt sông. Thành vừa nhô đầu khỏi ụ đất thì đạn đại liên địch từ chỗ đầu cầu bắn sang khiến Thành phải thụp xuống. Lần thứ hai, thứ ba như thế, Thành bảo chúng ta bị lộ. Ngửa mặt lên trời nhìn pháo sáng một lúc, Thành bảo tôi:

- Các anh cho hết đồ đạc vào bao ni lông đựng gạo, rồi tôi sẽ ném từng bao xuống sông. Khi ném như vậy địch sẽ bắn, bắn hết đạn, tôi hô nhảy là nhảy. Tôi, anh Chiến, anh Đợi nhảy sau bảo vệ. Thi hành ngay!

Đồ đạc được túm gọn và quấn chặt theo lệnh của chú em kém mình 5 tuổi, nhưng lệnh là lệnh, phải thi hành! Dứt tiếng đại liên, Thành ném bao thứ nhất. Địch siết cò. Bao thứ hai, đại liên găm vào ụ đất. Bao thứ ba, chúng néo cò, cả băng đạn sổ ra rồi im bặt. Thành ra lệnh: “Nhảy!”.

Theo quy định, 3 anh em bám nhau mà nhảy, rồi nhanh chóng bơi xuôi dòng bám lấy phao bơi. Lắp xong băng đạn, thằng bắn đại liên trên bờ cứ thế siết cò, nhưng cả 3 anh em đã quá tầm đạn nên chẳng hề hấn gì. Lúc này, cái tài bơi trên sông Lô của tôi, so với tài bơi trên sông Ngàn Phố của Thành chả kém nhau là mấy. Cả 3 vừa đẩy phao, vừa ra sức bơi sải để nhanh đến bờ.

Thấy không làm gì được, địch gọi máy bay OV10 đến bắn pháo khói xuống sông, chỉ vài phút sau, tốp máy bay A37 nấp ở đâu trên mây liền lao đến ném bom. Sóng dồi lên tức hết cả ngực. Thành vẫn dẫn đầu, khẩu AK đã được Thành đeo vào cổ từ lúc nào, lúc này vẫn hếch lên phao bơi. Tôi và Đợi cách Thành từ 5 đến 10m.

Loạt bom thứ hai ném xuống sông Thạch Hãn đẩy 3 anh em xuôi, cách bờ ngày càng xa hơn. Thành ngoái lại chỉ tôi bơi xuôi nữa, còn bản thân thì đẩy phao ngược dòng Thạch Hãn. Nhìn vào bờ đã thấy cánh bộ binh đang cầm thùng đạn gỗ trực nhảy xuống sông cứu Thành, thì A37 lại cắt tiếp hai quả bom nữa. Bom chỉ cách chỗ Thành đang bơi ngược sông Thạch Hãn mươi mét. Tôi thấy rõ sóng tung Thành lên khỏi mặt nước, rồi nhấn Thành xuống dòng sông sâu. Tôi đã vào được bờ, còn Thành nằm lại ở đáy sông Thạch Hãn phía bên này của thành cổ.

Những ngày trong thành cổ, đêm đến tôi cũng ra bờ sông đón anh em, đón đạn dược. Có những đêm thuyền cao su của công binh đưa thương binh ra giữa sông, trúng pháo, cả xuồng chìm dưới đáy sông. Có đêm bộ binh tăng cường, ào ào vượt sông vào thành cổ, chưa kịp đến bờ, trúng pháo, không thể nào tìm được xác. 7 đêm trong thành cổ là 7 đêm tôi tận mắt thấy các chiến sĩ ta hy sinh trên sông Thạch Hãn như thế. Đến ngày 16-9-1972, toàn bộ các đơn vị rút quân khỏi thành cổ. “Trợ lý tác chiến tên là Sửu cùng quê Hà Tây với anh cũng bị trúng pháo”, sau này đồng chí Thể vệ binh nói với tôi như thế!

Không có một thống kê nào cho thấy trong hàng vạn chiến sĩ đã hy sinh tại Mặt trận Thành cổ 81 ngày đêm, thì có bao nhiêu chiến sĩ hy sinh trên sông Thạch Hãn như Hà Huy Thành? Không ai biết được, nhưng có một điều chắc chắn, đáy sông Thạch Hãn vẫn còn nhiều đồng đội tôi nằm dưới đó! Vì thế bạn ơi, nếu đến đây, nếu có bơi thuyền trên sông này thì hãy nhớ: “Đò lên Thạch Hãn ơi... chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm!”.

PHÍ VĂN CHIẾN